Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions Sri Lanka – Wikipedia tiếng Việt

Sri Lanka

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

ශ්‍රී ලංකාව
இலங்கை சனநாயக சோஷலிசக் குடியரசு
Quốc kỳ của Sri Lanka Quốc huy của Sri Lanka
(Quốc kỳ) (Quốc huy)
Khẩu hiệu quốc gia: không có
Quốc ca: Sri Lanka Matha
Bản đồ với nước Sri Lanka được tô đậm
Thủ đô Sri Jayawardenepura Kotte

6°54′N 79°54′E

Thành phố lớn nhất Colombo
Ngôn ngữ chính thức tiếng Sinhala và tiếng Tamil
Chính phủ
Tổng thống
Thủ tướng
Cộng hòa
Mahinda Rajapaksa
Ratnasiri Wickremanayake
Độc lập
Granted
Từ Anh
4 tháng 2 năm 1948
Diện tích
 • Tổng số
 • Nước (%)
 
65.610 km² (hạng 121)
1,3%
Dân số
 • Ước lượng năm 2005
 • Thống kê dân số 2001
 • Mật độ
 
20.743.000 (hạng 52)
16.864.544
316 người/km² (hạng 24)
HDI (2003) 0,751 (hạng 93) – trung bình
GDP (2005)
 • Tổng số (PPP)
 • Trên đầu người (PPP)
 
86,72 tỷ đô la Mỹ (hạng 59)
4.300 đô la Mỹ (hạng 142)
Đơn vị tiền tệ Rupee Sri Lanka (LKR)
Múi giờ
 • Quy ước giờ mùa hè
UTC+5:30
Không áp dụng
Tên miền Internet .lk
Mã số điện thoại +94

Sri Lanka, tên chính thức Cộng hoà Dân chủ Xã hội chủ nghĩa Sri Lanka (ශ්රී ලංකා trong ngôn ngữ Sinhala, இலங்கை trong tiếng Tamil; từng được gọi là Ceylon trước năm 1952) đây là một đảo quốc với đa số dân theo Phật giáoNam Á, nằm cách khoảng 31 kilômét (18½ dặm) ngoài khơi bờ biển phía nam Ấn Độ. Nước này thường được gọi là Hòn ngọc Ấn Độ Dương. Dân số Sri Lanka hơn 20 triệu người.

Là một đường nối hàng hải chiến lược giữa Tây Á và Đông Nam Á, Sri Lanka từng là trung tâm tôn giáo và văn hoá Phật giáo thời cổ. Một số người dân nước này theo Hindu giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và các tôn giáo thổ dân khác. Người Sri Lanka chiếm đa số (74%), ngoài ra còn có các cộng đồng người Tamil, Hồi giáo, Burghers và người thổ dân khác. Nổi tiếng về sản xuất và xuất khẩu chè, cà phê, cao sudừa, cũng có một nền kinh tế công nghiệp hiện đại và đang phát triển. Vẻ đẹp tự nhiên của những cánh rừng nhiệt đới Sri Lanka, các bãi biển và phong cảnh cũng như sự giàu có về các di sản văn hoá biến nước này thành điểm đến nổi tiếng với du khách thế giới.

Sau hơn một ngàn năm dưới quyền cai trị của các vương quốc độc lập và từng bị sáp nhập vào Đế chế Chola, Sri Lanka bị Bồ Đào Nha và Hà Lan chiếm làm thuộc địa trước khi bị chuyển qua tay Đế chế Anh.Trong Chiến tranh thế giới thứ hai nước này là một căn cứ chiến đấu quan trọng chống lại Nhật Bản. Một phong trào chính trị đòi độc lập đã xuất hiện trong nước vào đầu thế kỷ 20, cuối cùng Sri Lanka được trao trả độc lập năm 1948. Dù đã có một giai đoạn dân chủ ổn định và phát triển kinh tế, nước này đã bị tàn phá bởi cuộc nội chiến đẫm máu giữa người Sri Lanka nắm chính phủ và lực lượng ly khai Tamil do LTTE lãnh đạo, lực lượng này yêu cầu thành lập một nhà nước Tamil độc lập ở phía đông bắc Sri Lanka. Những trận sóng thần do vụ động đất Ấn Độ Dương 2004 gây ra đã tàn phá các vùng phía nam và đông bắc nước này, khiến nhiều người thiệt mạng và rất nhiều người khác phải di chuyển nhà cửa.

Mục lục

[sửa] Tên gọi

Năm 1972, tên chính thức của đất nước được đổi thành "Cộng hoà Sri Lanka Tự do, Chủ quyền và Độc lập " (ශ්‍රී ලංකා śrī lankā trong ngôn ngữ Sinhala (trong khi chính hòa đảo này tự gọi mình là ලංකාව lankāva), இலங்கை ilaṅkai trong tiếng Tamil). Năm 1978 nó được đổi thành "Cộng hoà Sri Lanka xã hội chủ nghĩa dân chủ". Trước năm 1972, Sri Lanka được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: các nhà địa lý học Hy Lạp cổ đại gọi nó là Taprobane, người Ả rập gọi là Serendib, Ceilão là tên chính thức do người Bồ Đào Nha đặt khi họ tới hòn đảo này, nhưng có lẽ tên nổi tiếng nhất là Ceylon. "Sri Lanka" (nguyên gốc từ tiếng Phạn) được dịch thành "Lanka đáng kính", "śrī" nghĩa là "đáng kính trọng" và "laṃkā" là tên cổ của hòn đảo đã được kiểm chứng trong cuốn Mahabharata và sử thi Ramayana.

[sửa] Lịch sử

Xem chi tiết: Lịch sử Sri Lanka

Những khu định cư của loài người từ thời kỳ đồ đá cũ đã được phát hiện tại các điểm khai quật trong nhiều hang động tại vùng đồng bằng phía tây và phía tây nam vùng Đồi Trung tâm. Các nhà nhân loại học tin rằng một số kiểu nghi thức mai táng và những đồ trang trí cho thấy những sự tương đồng giữa những cư dân đầu tiên trên hòn đảo này và những cư dân sống tại nam Ấn Độ. Một trong những đoạn văn bản đầu tiên đề cập tới hòn đảo này đã được tìm thấy trong sử thi Ramayana của Ấn Độ, trong đó miêu tả hoàng đế Ravana là vua của vương quốc hùng mạnh Lanka. Những đoạn văn quan trọng khác đề cập tới lịch sử đất nước cũng được tìm thấy trong các cuốn biên niên sử Mahavansa và Dipavamsa.

Hình:Vijay landing.jpg
Giáng trần của Vua Vijaya được thể hiện trên một bức bích hoạ Ajanta

Những cư dân đầu tiên trên hòn đảo Sri Lanka ngày nay có thể là tổ tiên của người Wanniyala-Aetto, cũng được gọi là Veddahs với dân số khoảng 3.000 người. Phân tích ngữ âm cho thấy có sự tương quan giữa ngôn ngữ Sinhalese và các ngôn ngữ Sindh và Gujarat, dù đa số các nhà sử học tin rằng cộng đồng Sinhala đã xuất hiện sau sự đồng hóa nhiều nhóm dân tộc khác. Người Dravidian có thể đã bắt đầu di cư tới hòn đảo này từ thời tiền sử. Một số điểm khảo cổ học đáng chú ý, gồm cả tàn tích Sigiriya, được gọi là "Pháo đài trên bầu trời", và các công trình công cộng lớn có từ thời cổ đại. Trong số những công trình công cộng đó có những "bể nước" hay hồ chứa nước lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc tích trữ nước cho mùa khô, và các hệ thống cống dẫn nước tinh vi, với độ nghiêng được xác định chỉ là một inch trên mỗi dặm. Sri Lanka cổ đại cũng là một trong những đất nước đầu tiên trên thế giới đã thành lập một bệnh viện chuyên môn tại Mihintale từ thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Sri Lanka cổ đại cũng là nhà xuất khẩu quế hàng đầu thế giới, quế đã được xuất khẩu sang Ai Cập ngay từ năm 1.400 trước Công Nguyên. Sri Lanka cũng là nước Châu Á đầu tiên có vua cai trị là nữ giới, Nữ hoàng Anula (47–42 TCN) Tiêu bản:SriLankaHistory Sri Lanka cổ đại nằm dưới quyền quản lý của nhiều tiểu quốc, chia thành nhiều vùng khác nhau. Hòn đảo này thỉnh thoảng cũng phải chống trả các cuộc xâm lược từ phía các vương triều Nam Ấn và nhiều phần của nó cũng phải trải qua các giai đoạn cai trị của triều đại Chola, triều đại Pandya, triều đại Chera và triều đại Pallava. Sri Lanka cũng từng bị các vương quốc Kalinga (Orissa hiện đại) và các vương quốc từ Bán đảo Malay xâm chiếm. Phật giáo từ Ấn Độ được Bhikkhu Mahinda, người được cho là con trai hay anh/em trai của Mauryan hoàng đế Ashoka, đưa tới đây từ thế kỷ thứ 3 TCN. Phái đoàn của Mahinda đã chiếm được lòng tin của vua Singhalese là Devanampiyatissa xứ Mihintale, vị vua quyết định theo tôn giáo mới và truyền bá nó trong khắp dân cư Sinhalese. Các vương quốc Phật giáo tại Sri Lanka xây dựng một số lượng lớn các trường Phật học và đền chùa, và hỗ trợ việc truyền bá đạo Phật vào vùng Đông Nam Á.

Sri Lanka luôn là một cảng biển và đầu mối thương mại quan trọng của thế giới cổ đại, và các tàu buôn từ Trung Đông, Ba Tư, Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng như các vùng khác ở Đông Nam Á ngày càng lui tới đây đông hơn. Các nhà thám hiểm Châu Âu đầu tiên tới vùng Đông Nam Á đã biết tới hòn đảo này và nhiều thương gia Ả rập cũng như Malaysia đã định cư ở nơi đây. Một sứ đoàn thực dân Bồ Đào Nha tới đây năm 1505. Ở thời điểm ấy, hòn đảo gồm ba vương quốc, là Yarlpanam (Anh hoá Jaffna) ở phía bắc, Kandy ở vùng Đồi Trung tâm và Kotte ở bờ biển phía tây. Người Hà Lan đã tới đây vào thế kỷ 17. Dù phần lớn Sri Lanka bị các cường quốc Châu Âu xâm chiếm làm thuộc địa, vùng phía trong, vùng đồi núi, với thủ đô là Kandy vẫn giữ được độc lập. Công ty Đông Ấn Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm hòn đảo vào năm 1796, tuyên bố Sri Lanka là một thuộc địa hoàng gia năm 1802, dù Sri Lanka không được kết nối chính thức với Ấn Độ Anh Quốc. Sự sụp đổ của vương quốc Kandy năm 1815 làm toàn bộ hòn đảo bị Đế quốc Anh đô hộ. Tiêu bản:Ancientcapitalsofsrilanka Thực dân Châu Âu đã thiết lập hàng loạt các đồn điền chè, quế, cao su, đường, cà phêchàm. Người Anh cũng mang tới một lượng lớn công nhân hợp đồng từ Tamil Nadu để làm việc tại các đồn điền đó. Thành phố Colombo được dựng lên làm trung tâm hành chính, và người Anh lập ra các trường học, đại học, đường sá và nhà thờ hiện đại, áp đặt nền giáo dục và văn hóa Châu Âu lên người bản xứ. Sự bất bình ngày càng tăng về việc hạn chế nhân quyền, đối xử bất bình đẳng và lạm dụng người dân bản xứ của chính quyền thuộc địa khiến cuộc đấu tranh giành độc lập bắt đầu diễn ra từ thập kỷ 1930, khi Liên đoàn Tuổi trẻ phản đối "Bản ghi nhớ của các vị bộ trưởng," theo đó đòi hỏi chính quyền thuộc địa phải tăng quyền lực cho hội đồng bộ trường mà không trao cho nhân dân quyền đại diện cũng như các quyền tự do cá nhân. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hòn đảo này trở thành một căn cứ quân sự quan trọng của Đồng Minh. Một phần quan trọng của hạm đội Anh, Mỹ đã được triển khai tại đây, và hàng chục nghìn binh sĩ đã tham chiến chống Nhật Bản tại vùng Đông Nam Á.

Sau chiến tranh, áp lực của dân chúng đòi quyền độc lập ngày càng tăng. Ngày 4 tháng 2, 1948 nước này giành được độc lập với tên gọi Thịnh vượng chung Ceylon. Don Stephen Senanayake trở thành Thủ tướng đầu tiên của Sri Lanka. Năm 1972, nước này trở thành một nước cộng hòa bên trong Khối thịnh vượng chung, và đổi tên thành Sri Lanka. Ngày 21 tháng 7, 1960 Sirimavo Bandaranaike trở thành người phụ nữ đầu tiên lãnh đạo chính phủ thời hậu thuộc địa tại Châu Á khi bà chính thức nhận chức thủ tướng. Trong thập kỷ 1970, những cuộc xung đột chính trị nổ ra giữa các cộng đồng Sinhalese và Tamil. Cộng đồng Tamil chỉ trích sự phân biệt đối xử và việc tước quyền chính trị ngày càng tăng và đòi hỏi nhiều quyền tự trị cho vùng mình. Trong thập kỷ 1980, hòa bình và sự ổn định từ lâu trên hòn đảo đã bị tan vỡ khi phong trào ly khai Tamil do lực lượng Những con hổ giải phóng Tamil (LTTE), dẫn đầu yêu cầu thành lập một nhà nước Ealam độc lập tại đông bắc Sri Lanka. Một thỏa thuận hòa bình năm 1986 do Ấn Độ trung gian đã tan vỡ năm 1988 khi binh lính gìn giữ hòa bình Ấn Độ đụng độ quân sự trực tiếp với LTTE trong khi đang nỗ lực giải giáp. Những người quốc gia Sri Lanka yêu cầu rút quân Ấn Độ, và tới năm 2000, 50.000 người đã thiệt mạng trong các trận chiến giữa Quân đội Sri Lanka và LTTE, đang nắm quyền kiểm soát nhiều vùng phía đông bắc. Một cuộc ngừng bắn tạm thời đã tái lập hòa bình cho hòn đảo khi chính phủ và LTTE bắt đầu cuộc đàm phán ngoại giao với sự trung gian của Na Uy. Trận động đất Ấn Độ Dương 2004 đã gây ra những cơn sóng thần mạnh tàn phá bờ biển phía nam và phía đông nước này, giết chết và buộc gần 40.000 người dân phải chuyển chỗ ở.

[sửa] Địa lý và khí hậu

Xem chi tiết: Địa lý Sri Lanka
Bản đồ địa hình Sri Lanka.
Bản đồ địa hình Sri Lanka.

Hòn đảo Sri Lanka nằm ở Ấn Độ Dương, phía tây nam Vịnh Bengal và phía đông nam Biển Ả rập. Nó ngăn cách với tiểu lục địa Ấn Độ bởi Vịnh Mannar và Eo biển Palk. Theo thần thoại Hindu, một cây cầu đất nối với lục địa Ấn Độ, được gọi là Cầu của Rama, đã được xây dựng ở thời Rama bởi kiến trúc sư vanara là Nala. Nó cũng thường được gọi là Cầu của Adam, hiện nó chỉ còn sót lại một dải đá vôi và bãi cát ngầm bên trên mực nước biển. Theo những văn bản ghi chép tại những ngôi đền, con đường nổi thiên nhiên này trước kia đã tồn tại, nhưng đã bị một cơn bão mạnh (có thể là một cơn lốc xoáy) năm 1480 phá huỷ. Chiều rộng của Eo biển Palk khá nhỏ nền từ bờ biển Sri Lanka có thể quan sát thấy điểm xa nhất gần thị trấn Rameswaram của Ấn Độ. Hòn đảo với hình dạng viên ngọc trai này chủ yếu gồm các đồng bằng phẳng, núi non chỉ có ở phần trung nam. Núi Sri Pada với điểm cao nhất là Pidurutalagala (cũng được gọi là Mt Pedro), cao 2,524 mét (8,281 ft). Mahaweli ganga (sông Mahaweli) và các con sông chính khác là nguồn cung cấp nước ngọt.

Khí hậu Sri Lanka có thể coi là nhiệt đới và khá nóng. Vị trí nằm giữa vĩ độ 5 và 10 độ bắc khiến nước này có khí hậu ấm, được các cơn gió đại dương giữ ôn hòa và cung cấp khá nhiều lượng hơi ẩm. Nhiệt độ trung bình trong khoảng từ mức thấp 16°C tại Nuwara Eliya ở vùng Cao nguyên Trung Tâm (nơi có thể xuất hiện băng giá trong một số ngày mùa đông) tới mức cao 32° C tại Trincomalee tại bờ biển phía đông bắc (nhiệt độ cao nhất có thể lên đến 38 °C). Nhiệt độ trung bình năm cả nước từ 28 đến 30 °C. Nhiệt độ ngày và đêm có thể chênh lệch từ 4 đến 7 độ. Vào tháng 1, tháng lạnh nhất, người dân vùng đồi núi và một số nơi khác phải mặc áo khoác và áo len. Tháng 5, tháng nóng nhất, cũng là tháng trước mùa mưa. Lượng mưa bị ảnh hưởng bởi gió mùa từ Ấn Độ Dương và Vịnh Bengal, bị địa hình vùng Cao nguyên Trung tâm ngăn cản, chúng gây mưa lớn ở những vùng núi và khu vực phía tây nam hòn đảo. Một số nơi ở phía núi chắn gió lượng mưa có thể lên tới 2500 mm mỗi tháng, nhưng phía đông và đông bắc đối diện, lượng mưa thấp hơn hẳn. Những cơn gió mạnh định kỳ và những cơn lốc xoáy bất thường che phủ bầu trời và mang mưa tới khu vực tây nam, đông bắc, và những vùng phía đông hòn đảo. Khoảng thời gian từ tháng 12 tới tháng 3, gió mùa từ phía đông bắc thổi đến, mang theo hơi ẩm từ Vịnh Bengal. Độ ẩm ở vùng tây nam và vùng núi nói chung cao hơn và phụ thuộc vào lượng mưa theo mùa. Ví dụ, tại Colombo, độ ẩm ban ngày cao hơn 70% trong cả năm, lên tới khoảng 90% vào tháng 6, mùa gió mùa. Anuradhapura có độ ẩm ban ngày ở mức thấp 60% vào thời kỳ gió mùa tháng 3, nhưng lên tới mức cao 79% trong mùa mưa tháng 11 và tháng 12. Ở vùng cao nguyên, độ ẩm ban ngày tại Kandy thường thay đổi trong khoảng 70 và 79%.

[sửa] Hệ động thực vật

Xem chi tiết: Sinh thái Sri Lanka
Hình:Srilankamountainforest.jpg
Những cánh rừng trên núi tại Sri Lanka.

Mô hình hệ sinh thái Sri Lanka phụ thuộc trực tiếp vào lượng mưa. Vùng núi và vùng phía tây nam đất nước, được gọi là "vùng ẩm," có lượng mưa trung bình hàng năm 2500 mm. Đa số phần phía đông nam, đông và bắc đất nước là "vùng khô", với lượng mưa trung bình hàng năm 1200 tới 1900 mm. Đa số lượng mưa tại các khu vực đó xảy ra từ tháng 10 tới tháng 1; trong khoảng thời gian còn lại của năm, lượng mưa rất thấp, và mọi loài động thực vật phải biết cách gìn giữ hơi ẩm quý giá. Vùng bờ biển tây bắc và đông nam khô cằn nhận lượng mưa thấp nhất — 600 tới 1200 mm hàng năm — tập trung chủ yếu trong giai đoạn gió mùa mùa đông ngắn ngủi. Thời kỳ ra hoa đa dạng của cây keo thích ứng tốt với điều kiện cằn cỗi nhờ vậy loại cây này phát triển tốt trên Bán đảo Jaffna. Trong số những loài cây của các khu rừng đất khô, một số loài như sơn tiêu, mun, thiết mộc, và dái ngựa có phát triển trên đảo. Ở vùng ẩm, hệ thực vật chủ yếu là các loài cây nhiệt đới xanh tốt quanh năm, những loại cây cao, cây lá rộng và các loại cây leo phong phú. Những khu rừng cận nhiệt đới xanh tốt tương tự với những khu rừng ôn đới tại các vùng cao hơn. Trước kia rừng cây từng bao phủ hầu như toàn bộ hòn đảo, nhưng tới cuối thế kỷ 20, những vùng đất được xếp hạng là rừng và khu bảo vệ rừng chỉ chiếm một phần năm diện tích. Vườn Quốc gia Ruhunu ở phía đông nam là nơi sinh sống của những bầy voi, hươu nai và công, Vườn Quốc gia Wilpattu là nơi bảo tồn và sinh sống của nhiều loài chim nước như cò, bồ nông, cò quăm và cò thìa. Trong Chương trình Mahaweli Ganga thời những năm 1970 1980 ở phía bắc Sri Lanka, chính phủ đã lập bốn vùng với tổng diện tích lên tới 1,900 km² để thành lập các Vườn Quốc gia. Hòn đảo này có ba khu dự trữ sinh quyền, Hurulu, Sinharaja, và Kanneliya-Dediyagala-Nakiyadeniya.

[sửa] Chính phủ và chính trị

Xem chi tiết: Chính trị Sri Lanka

Tiêu bản:Chính trị Sri Lanka

Các tỉnh Sri Lanka

Hiến pháp Sri Lanka quy định một chính thể cộng hoà dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Sri Lanka, và nó cũng là một nhà nước nhất thể. Chính phủ là sự pha trộn giữa hệ thống tổng thống và hệ thống nghị viện. Tổng thống Sri Lanka là nguyên thủ quốc gia, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, cũng như là lãnh đạo chính phủ. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm. Khi thi hành các trách nhiệm, Tổng thống chịu trách nhiệm trước Nghị viện Sri Lanka, theo chế độ nhất viện với 225 thành viên lập pháp. Tổng thống chỉ định và lãnh đạo một nội các gồm các bộ trưởng trong số thành viên nghị viện. Người phó của Tổng thống là Thủ tướng, thủ tướng là người lãnh đạo đảng đa số trong nghị viện và chịu một số trách nhiệm hành pháp, chủ yếu với công việc trong nước. Sri Lanka được chia thành 9 tỉnh và được chia nhỏ tiếp thành 25 quận. Mỗi tỉnh được quản lý hành chính trực tiếp bởi một ủy ban tỉnh do nhân dân trực tiếp bầu ra. Các tỉnh gồm (viết hoa trong dấu ngoặc đơn):

  1. Trung Tâm (Kandy)
  2. Trung Bắc (Anuradhapura)
  3. Bắc (Jaffna)
  4. Đông (Trincomalee)
  5. Tây Bắc (Kurunegala)
  6. Nam (Galle)
  7. Uva (Badulla)
  8. Sabaragamuwa (Ratnapura)
  9. Tây (Colombo)

Các thành viên nghị viện được bầu theo phổ thông đầu phiếu dựa trên một hệ thống đại diện tỷ lệ đã được sửa đổi với nhiệm kỳ sáu năm. Sửa đổi quan trọng nhất là đảng nhận được số phiếu bầu hợp lệ lớn nhất ở mỗi khu vực bầu cử sẽ giành được "ghế thưởng" duy nhất. Tổng thống có thể triệu tập, tạm ngưng hay chấm dứt một kỳ họp lập pháp và giải tán Nghị viện vào bất cứ thời điểm nào sau khi đã cầm quyền đủ một năm. Nghị viện giữ quyền làm luật. Ngày 1 tháng 7, 1960 người dân Sri Lanka đã bầu vị lãnh đạo chính phủ nữ đầu tiên từ trước tới nay là Thủ tướng Srimavo Bandaranaike. Con gái bà, Chandrika Kumaratunga, đã giữ chức vụ thủ tướng trong nhiều nhiệm kỳ và giữ chức tổng thống từ năm 1999 tới 2005. Tổng thống hiện nay là Mahinda Rajapaksa, nhậm chức ngày 21 tháng 11, 2005. Ratnasiri Wickremanayake lên nhậm chức thủ tướng hiện nay ngày 21 tháng 11, 2005.

Tòa án Tối cao Sri Lanka tại Colombo
Tòa án Tối cao Sri Lanka tại Colombo

Chính trị tại Sri Lanka được kiểm soát bởi các liên minh đối nghịch do Đảng Tự do Sri Lanka cánh tả, với Chủ tịch Rajapakse, và Đảng Thống Nhất Quốc gia thân cánh hữu, do cựu thủ tướng Ranil Wickremesinghe cầm đầu. Một số đảng Phật giáo, xã hội chủ nghĩa, và quốc gia Tamil nhỏ hơn có tồn tại, các đảng này phản đối chủ nghĩa ly khai của LTTE nhưng yêu cầu quyền tự trị cho vùng này và tăng cường nhân quyền. Từ năm 1948, Sri Lanka đã trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chungLiên hiệp quốc. Nước này cũng là một thành viên của Phong trào không liên kết, Kế hoạch Colombo, và Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, Sri Lanka theo đuổi chính sách đối ngoại không liên kết nhưng vẫn thân cận hơn với Hoa Kỳ và Tây Âu. Quân đội Sri Lanka gồm Lục quân Sri Lanka, Hải quân Sri Lanka và Không quân Sri Lanka. Các bộ phận quân sự này do Bộ quốc phòng quản lý. Từ thập kỷ 1980, quân đội cùng chính phủ đã chiến đấu chống lại những người vũ trang Mác xít JVP và hiện là lực lượng LTTE. Sri Lanka nhận được những khoản viện trợ quân sự lớn từ Ấn Độ, Hoa Kỳ và các quốc gia Châu Âu.

Xem thêm: Quan hệ nước ngoài Sri Lanka, Quân đội Sri Lanka, và Tỉnh Sri Lanka

[sửa] Kinh tế

Xem chi tiết: Kinh tế Sri Lanka
Trung tâm Thương mại Thế giới tại Colombo.
Trung tâm Thương mại Thế giới tại Colombo.

Trong thế kỷ 19 và 20, Sri Lanka đã trở thành một nền kinh tế trồng trọt, nổi tiếng về sản xuất và xuất khẩu quế, cao su và chè Ceylon, hiện đây vẫn là một thương hiệu xuất khẩu quốc gia. Sự phát triển các cảng biển hiện đại thời cai trị Anh khiến hòn đảo này có tầm quan trọng chiến lược, trở thành một trung tâm thương mại. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hòn đảo là nơi đóng quân của một số lực lượng quân sự quan trọng của Đồng Minh. Tuy nhiên, nền kinh tế trồng trọt đã làm trầm trọng thêm sự nghèo khổ và sự bất bình đẳng kinh tế. Từ năm 1948 tới năm 1977 chủ nghĩa xã hội đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới các chính sách kinh tế của chính phủ. Các loại cây trồng thời thuộc địa bị phá bỏ, các ngành công nghiệp bị quốc hữu hóa và tình trạng quốc gia chiến tranh được đưa ra. Trong khi tiêu chuẩn sống và tỷ lệ biết chữ được cải thiện vượt bậc, nền kinh tế quốc gia bị ảnh hưởng bởi sự kém hiệu quả, tăng trưởng chậm và thiếu đầu tư nước ngoài.

Từ năm 1977 chính phủ UNP bắt đầu tiến hành tư nhân hoá, giảm kiểm soát và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân. Trong khi sản lượng và xuất khẩu chè, cao su, cà phê, đường và các sản phẩm nông nghiệp khác vẫn chiếm vai trò quan trọng, quốc gia này đang có những bước chuyển vững chắc sang một nền kinh tế công nghiệp hóa với sự phát triển các ngành chế biến lương thực, dệt may, viễn thông và tài chính. Tới năm 1996, nông nghiệp chỉ còn chiếm 20% xuất khẩu (so với 93% năm 1970), trong khi dệt may đã chiếm tới 63%. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng trung bình 5.5% hàng năm những năm đầu thập kỷ 1990, tới khi tình trạng hạn hán và an ninh kém khiến nó tụt xuống còn 3.8% năm 1996. Kinh tế đã tìm lại nhịp độ tăng trưởng trong thời kỳ 1997-2000, với mức trung bình hàng năm 5.3%. Năm 2001 là lần giảm phát kinh tế đầu tiên trong lịch sử đất nước, là hậu quả của việc thiếu năng lượng, các vấn đề ngân sách, giảm phát toàn cầu, và sự tiếp diễn của cuộc nội chiến. Những dấu hiệu hồi phục đã xuất hiện sau cuộc ngừng bắn năm 2002. Thị trường Chứng khoán Colombo đã thông báo mức tăng trưởng cao nhất thế giới năm 2003 và hiện nay Sri Lanka có mức thu nhập trên đầu người cao nhất khu vực Nam Á.

Hình:Sri Lanka 030.jpg
Chè Ceylon - sản phẩm xuất khẩu nổi tiếng nhất của Sri Lanka.

Tháng 4, 2004, đã có sự thay đổi lớn trong chính sách kinh tế sau khi chính phủ do Ranil Wickremesinghe của Đảng Thống nhất Quốc gia lãnh đạo bị liên minh gồm Đảng Tự do Sri Lanka và phong trào quốc gia cánh tả Janatha Vimukthi Peramuna được gọi là Liên minh Tự do Thống nhất Nhân dân đánh bại. Chính phủ mới đã dừng việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước và cải cách các lĩnh vực công cộng như năng lượng và dầu mỏ, và tiến hành một chương trình trợ cấp tên gọi Chương trình kinh tế Rata Perata. Mục tiêu chính của chương trình là hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tại vùng thành thị cũng như nông thôn và bảo vệ nền kinh tế trong nước khỏi ảnh hưởng từ bên ngoài như giá dầu, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Nhưng chính sách trợ cấp này kéo theo việc phải nhập khẩu các vật tư như nhiên liệu, phân bón và bột mì khiến lĩnh vực tài chính nhanh chóng lụn bại. Riêng năm 2004 Sri Lanka đã chi gần 180 triệu US$ để trợ cấp nhiên liệu, bởi việc giữ ổn định giá nhiên liệu là một lời hứa khi bầu cử. Nhằm làm giảm con số thâm hụt ngân sách đang tăng lên cho những chương trình trợ cấp và tuyển dụng công cộng, chính phủ cuối cùng đã phải cho in 65 tỷ Rs (US$ 650 triệu) hay khoảng 3% GDP. Chính sách tài chính, cộng với việc phá giá tiền tệ cuối cùng làm mức lạm phát tăng tới 18% vào tháng 1 năm 2005, theo con số của Chỉ số Giá Tiêu dùng Sri Lanka.

[sửa] Vận tải

Colombo-Galle Face Green
Colombo-Galle Face Green

Đa số các thành phố Sri Lanka đều được kết nối với mạng đường sắt, do công ty nhà nước Sri Lanka Railways, điều hành. Tuyến đường sắt đầu tiên được khánh thành ngày 26 tháng 4, 1867, nối Colombo với Kandy. Tổng chiều dài các con đường tại Sri Lanka vượt quá 11,000 kilômét, đa số đã được trải nhựa. Chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình đường cao tốc nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế và hệ thống vận tải quốc gia, gồm tuyến Đường cao tốc Colombo-Katunayake, Đường cao tốc Colombo-Kandy (Kadugannawa), Đường cao tốc Colombo-Padeniya và Xa lộ Vành đai ngoài nhằm giảm nhẹ áp lực giao thông cho Colombo. Cũng có những kế hoạch xây dựng một cây cầu lớn nối Jaffna với thành phố Chennai của Ấn Độ.

Ceylon Transport Board là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm điều hành các dịch vụ xe buýt trên toàn hòn đảo. Sri Lanka cũng có 430 kilômét đường thủy nội địa. Nước này có các cảng nước sâu tại Colombo, Trincomalee và Galle. Cũng có một cảng nông, và nhỏ hơn tại Kankesanturai, phía bắc Jaffna. Có 12 sân bay có đường băng trải nhựa và 2 sân bay đường băng đất tại Sri Lanka. SriLankan Airlines là hãng vận chuyển hàng không chính thức quốc gia, một phần công ty này hiện do Emirates sở hữu và điều hành. Hãng đã được Skytrax bầu là hãng hàng không tốt nhất khu vực Nam Á. SriLankan Air Taxi là công ty nhỏ hơn, chuyên chở hàng không nội địa, trong khi Expo Aviation và Lankair là những công ty hàng không tư nhân. Sân bay Quốc tế Bandaranaike là cảng hàng không quốc tế duy nhất của đất nước, nằm tại Katunayaka, cách Colombo 22 km về phía bắc.

[sửa] Nhân khẩu

Tượng Phật tại Mihintale.
Tượng Phật tại Mihintale.
Xem chi tiết: Nhân khẩu Sri Lanka

Sri Lanka là nước đông dân thứ 53 trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm 0.79%. Sri Lanka có mức sinh 15.63 trẻ trên 1,000 người và mức tử 6.49 trên 1,000 dân. Mật độ dân số cao nhất ở khu vực phía tây Sri Lanka, đặc biệt tại và xung quanh Colombo. Một lượng nhỏ dân số là người Wanniyala-Aetto, cũng được gọi là Veddahs. Họ được cho là nhóm người bản xứ xa xưa nhất của hòn đảo. Người Sinhalese là nhóm sắc tộc đông nhất nước, chiếm khoảng 74% tổng dân số. Người Tamil Sri Lanka chiếm 18% dân số và chủ yếu tập trung ở vùng phía đông bắc đất nước. Những người Tamil trước kia được thực dân Anh đưa tới đây từ Ấn Độ với tư cách những lao động giao kèo để làm việc trên những cánh đồng, được gọi là người Tamil "Gốc Ấn Độ". Họ khác biệt với người Tamil bản xứ đã từng sống ở Sri Lanka từ thời cổ đại. Một lượng không nhỏ dân số là người Moors, họ có nguồn gốc từ những nhà buôn và người nhập cư Ả rập. Họ chủ yếu sống tại các tỉnh phía đông. Ngoài ra còn có các nhóm sắc tộc nhỏ khác như Burghers (lai con cháu người Âu) và người Malay.

Một ngôi đền Hindu tại Colombo
Một ngôi đền Hindu tại Colombo

Tiếng Sinhalese và Tiếng Tamil là hai ngôn ngữ chính thức của Sri Lanka. Tiếng Anh được khoảng 10% dân số sử dụng, và phần lớn được dùng cho giáo dục, khoa học và thương mại. Các thành viên của cộng đồng Burgher sử dụng các biến thể tiếng Creole Bồ Đào Nha và tiếng Hà Lan ở các mức độ khác nhau. Sri Lanka luôn có sự đa dạng tôn giáo. Gần 68% người dân Sri Lanka là tín đồ Phật giáo. Phật giáo Tiểu thừa là trường phái ưu thế, với sự thờ cúng khác biệt và Ramanna Nikaya, Amarapura Nikaya cùng Siam Nikaya là những vị thần được tôn sùng nhất. Phật giáo tại Sri Lanka đã bị ảnh hưởng sâu rộng từ các niềm tin và truyền thống bản địa, cũng như ảnh hưởng từ các trường phái Phật giáo khác ở Đông Nam Á. Sri Dalada Maligawa hay "Đền Răng" nổi tiếng từ thời cổ đại là ngôi đền Phật giáo chính của Sri Lanka, và theo truyền thống là nơi cất giữ răng của Phật. Mỗi năm có hàng triệu tín đồ tới đây. Nhiều địa điểm tôn giáo nổi tiếng khác ở Sri Lanka cũng lôi cuốn nhiều khách thăm hàng ngày. Hindu giáo với 18% dân số là tín đồ, chủ yếu trong cộng đồng Tamil. Tín đồ Thiên chúa giáo chiếm từ 7-8% dân số, đặc biệt bên trong cộng đồng Burgher Bồ Đào Nha và Hà Lan. Trong khi đa số tìn đồ Thiên chúa giáo Sri Lanka theo Cơ đốc, cũng có một số lượng đáng kể tín đồ theo Nhà thờ Cải cách Hà Lan và Nhóm giáo phái Anh.

Xem thêm: Tôn giáo Sri Lanka

[sửa] Văn hoá

Xem chi tiết: Văn hoá Sri Lanka
Hình:Hoppers.jpg
Hoppers, a delicacy in Sri Lanka

Hòn đảo này là nơi xuất phát của hai nền văn hóa truyền thống: văn hóa Sinhalese (tập trung tại các thành phố cổ Kandy và Anuradhapura) và Tamil (tập trung tại thành phố Jaffna, thư viện công cộng đã bị phá hủy năm 1983 tại đây là trung tâm lưu trữ văn khố Tamil của thế giới). Gần đây hơn xuất hiện thêm nền văn hóa thực dân Anh và sau này là Sri Lanka, đặc biệt tại các khu vực thành thị, và bị ảnh hưởng rất nhiều từ phương tây. Ví dụ, ngay thời gian gần đây, đa số người Sri Lanka sống tại các ngôi làng thường ăn món ăn truyền thống, chế tạo các đồ truyền thống và thể hiện mình thông qua nghệ thuật truyền thống. Nhưng kinh tế tăng trưởng cộng với sự canh tranh ngày càng lớn từ phía các nước phát triển khiến người Sri Lanka phải chuyển đổi cách thức sản xuất, tây phương hoá, đánh mất bản sắc và bị đồng hoá.

Người Sri Lanka đã du nhập ảnh hưởng phương tây vào chế độ ăn hàng ngày như gạo và càri, pittu (hỗn hợp gạo rang trộn với nước dừa tươi, sau đó được nấu trong ống tre). Kiribath (gạo nấu với nước dừa đặc thành món tráng miệng không ngọt cùng với đồ gia vị rất cay được gọi là ";lunumiris"), wattalapam (đồ tráng miệng nguồn gốc Malay làm từ nước dừa, đường thốt nốt, hạt đào lộn hột, trừng, và nhiều hương vị gồm quế, đinh hương và nhục đậu khấu), kottu, và hublông ("appa"), bột nhão nấu nhanh trong một chiếc chảo nóng, thêm trứng, sữa hay hương vị. Thực phẩm Sri Lanka cũng có ảnh hưởng từ Hà Lan và Bồ Đào Nha, cộng đồng Burgher trên đảo gìn giữ nét văn hóa này thông qua các món ăn ưa thích truyền thống như Lamprais (gạo nấu cuốn trong lá chuối rồi nướng), Breudher (bánh Giáng sinh Hà Lan) và Bolo Fiado (Bánh kiểu Bồ Đào Nha).

Hình:KandyPerahara.jpg
Những con voi tại Esala Perahera

Là một trong những nhà sản xuất chè lớn nhất thế giới (Gia đình Hoàng gia Vương quốc Anh luôn dùng chè Ceylon), người Sri Lanka uống nhiều chè.

Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống và văn hoá Sri Lanka. Cộng đồng Phật tử đa số luôn tổ chức Ngày Poya, mỗi lần một tháng theo Âm lịch. Tín đồ Hindus và Hồi giáo cũng tổ chức những ngày lễ của riêng mình. Có nhiều đền thờ Phật giáo tại Sri Lanka và nhiều thánh đường Hồi giáo, đền Hindu cũng như nhà thờ trên khắp hòn đảo. Phía Bắc và phía Đông hòn đảo có nhiều đền thờ Hồi giáo và đền Hindu do một bộ phận lớn người Tamil và Hồi giáo sống tại những vùng này. Nhà thờ có nhiều dọc bờ biển phía nam bởi đây là nơi tập trung các tín đồ Thiên chúa giáo, đặc biệt là Cơ đốc giáo La Mã. Phía bên trong hòn đảo với đa số tín đồ Phật giáo, nhưng thực tế ở bất cứ nơi nào tại nước này đều có các tín đồ Phật giáo.

Xem thêm: Chè Ceylon (đen), Tôn giáo Sri Lanka, và Ẩm thực Sri Lanka

[sửa] Truyền thông

Xem chi tiết: Truyền thông Sri Lanka và Danh sách các tờ báo tại Sri Lanka

Radio Ceylon là trạm phát sóng radio đầu tiên hoạt động tại Châu Á, được Edward Harper thành lập năm 1923, chỉ ba năm sau khi đài phát thanh bắt đầu xuất hiện tại Châu Âu. Đây vẫn là một trong những chương trình được nhiều người theo dõi nhất tại Châu Á, sóng của nó tới được các nước Châu Á lân cận. Đài do Tổ hợp truyền thanh Sri Lanka quản lý và phát sóng các chương trình bằng tiếng Sinhalese, Tamil, tiếng Anh và Hindi. Từ thập niên 1980, một lượng lớn các đài phát thanh tư nhân như Raja FM, Shree FM và Sooriyan FM đã xuất hiện và thu được những thành công thương mại. Mạng lưới vô tuyến phổ thông nhất gồm ETV, ARTv, Sirasa TV và Shakthi TV. Các mạng lưới truyền hình quốc tế từ Ấn Độ, Đông Nam Á, Châu Âu và Châu Mỹ cũng được dân chúng theo dõi thường xuyên, truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh ngày càng được tầng lớp trung lưu Sri Lanka để ý theo dõi. Những ấn bản đông khách gồm những tờ báo tiếng Anh Daily MirrorThe Sunday ObserverThe Sunday Times. Dinakaran vvà Uthayan là những tờ báo tiếng Tamil có nhiều độc giả , và LankadeepaLakbima là báo tiếng Sinhalese. Đa số các tờ báo đều do công ty nhà nước Lakehouse Press sở hữu và điều hành. Cộng đồng người Do Thái Sri Lanka cũng có một tờ tạp chí riêng của họ, *- Serendipity magazine

[sửa] Giáo dục

Hình:Tck main hall.jpg
Đại sảnh Trường Trinity.
Xem chi tiết: Giáo dục Sri Lanka

Sri Lanka có tỷ lệ biết chữ cao nhất Nam Á và đa số các nước đang phát triển khác, với hơn 96% biết đọc và viết. Một hệ thống giáo dục miễn phí đã được tiến sĩ C. W. W. Kannangara, bộ trưởng giáo dục Sri Lanka đưa ra. Tiến sĩ Kannangara cho thành lập Maha Vidyalayas (Great Central Schools) ở nhiều vùng khác nhau của đất nước đưa giáo dục tới những người dân nông thôn Sri Lanka. Năm 1942 một ủy ban đặc biệt về giáo dục đã đề xuất những cải cách rộng lớn nhằm thành lập một hệ thống giáo dục chất lượng và hiệu quả cho người dân. Những thập kỷ gần đây, một lượng lớn trường học tư nhân và nhà nước đã được mở trên khắp đất nước. Tú tài Quốc tế và Chứng nhận Giáo dục Phổ thông Cấp hai Edexcel là các chương trình giáo dục thông dụng.

Có rất nhiều trường học và viện do Phật giáo và Thiên chúa giáo tổ chức. Tại đây học sinh được giảng dạy về tôn giáo và giáo dục hiện đại. Số lượng các madrassah cũng đang ngày càng tăng trong nước. Sri Lanka cũng có một số lượng lớn các trường đại học công và tư. Đa số chúng hoạt động theo mô hình các trường đại học và cao đẳng Anh. Royal College, Colombo là trường lâu đời nhất Sri Lanka, được thành lập năm 1835. Các trường nổi tiếng nhất tại Sri Lanka gồm Đại học Colombo, Đại học Kelaniya, Đại học Sri Jayewardenepura, Đại học Moratuwa, Đại học Peradeniya, Đại học Jaffna, Đại học Ruhuna, và Đại học Đông Sri Lanka.

Xem thêm: Các trường Cao đẳng và Đại học tại Sri Lanka

[sửa] Thể thao

Hình:SCC Ground Colombo.jpg
Sân SCC, tháng 3 năm 2001 tại Colombo, (Trận đấu tập giữa Sri Lanka và Anh)

Đại sứ quốc gia môn criket là Muttiah Muralitharan. Môn thể thao quốc gia tại Sri Lanka là bóng chuyền, trong khi các môn thể thao nước, điền kinh, bóng đá,tennis và rugby cũng được nhiều người ưa thích. Có khá nhiều các câu lạc bộ thể thao công cộng và tư nhân tại Colombo. Các trường học và đại học Sri Lanka thường tổ chức các đội thể thao riêng, thi đấu cấp tỉnh và quốc gia. Các môn thể thao nước như bơi thuyền, lướt sóng, bơi và lặn có bình khí nén trên bờ biển, thu hút rất nhiều người dân Sri Lanka cũng như các du khách. Sri Lanka có nhiều sân vận động, gồm Sinhalese Sports Club Ground, R. Premadasa Stadium vvà Rangiri Dumbulla Stadium tại Colombo cũng như Galle International Stadium tại Galle.

Dù các trận cricket hay bóng đá thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi những trận mưa lớn hay những lo ngại về an ninh từ phía lực lượng LTTE, Sri Lanka đã đăng cai Asia Cup và nhiều giải khác. Nước này cũng đồng tổ chức 1996 Cricket World Cup với Ấn Độ và Pakistan, và sẽ đồng tổ chức 2011 Cricket World Cup. Đội cricket quốc gia Sri Lanka đã đạt được những thành công lớn trong thập kỷ 1990, từ vị thế lép vế tới đạt chức vô địch 1996 World Cup và Asia Cup năm 1996 và 2004. Sri Lanka đã sản sinh ra nhiều huyền thoại thể thao như Roy Dias, Arjuna Ranatunga, Aravinda de Silva, Sanath Jayasuriya, Roshan Mahanama, Marvan Attapatu, Muttiah Muralitharan, and Chaminda Vaas. Mahela Jayawardene giữ kỷ lục ghi số điểm cao nhất của một người Sri Lanka trong một test cricket. Muttiah Muralitharan, bậc thầy nổi tiếng về off spin bowling đã có được hơn 600 wickets trong test cricket, biến ông thành bowler thành công nhất trong lịch sử môn cricket. Đội criket hiện tại do Mahela Jayawardene dẫn dắt, có một số cầu thủ trẻ triển vọng như Kumar Sangakkara, Upul Tharanga và Lasith Malinga trong khi vẫn có sự phục vụ của những cầu thủ kỳ cựu như Sanath Jayasuriya, Chaminda Vaas và Muttiah Muralitharan.

[sửa] Xem thêm

Tiêu bản:SRILANKANEWTOPICS Tiêu bản:Sri lanka ties

[sửa] Tham khảo

    • Mendis, G.C.: Ceylon Today and Yesterday, Colombo 1957 (3rd edition 1995)
    • de Silva, Chandra Richard: Sri Lanka - A History, New Delhi 1987 (2nd, revised ed. 1997)
    • Smith, Vincent A.: The Oxford History of India, Oxford 1958 (4th edition 1981)
    • Robert Knox.: An Historical Relation of the Island of Ceylon in the East Indies, New Delhi 2004 (Reprint. Asian Educational Services)
    • Williams, H.: Ceylon : Pearl of the East Delhi, Surjeet, 2002
    • Devendra, T. and Gunasena, D.: Sri Lanka : The Emerald Island, (New Delhi 1996), Roli Books.
    • Codrington, H.W.: A Short History of Ceylon, New Delhi 1994 (Reprint. Asian Educational Services)
    • K. M. De Silva.: A History of Sri Lanka. New Delhi, Penguin, xvii, p. 782, 2005.
    • James Brow.: Vedda villages of anuradhapura: The historical anthropology Of a community in Sri Lanka, University Of Washington Press, Seattle, 1978.
    • Manfred Domroes.: After the Tsunami: Relief and rehabilitation in Sri Lanka, New Delhi, Mosaic Books, 1st ed. 2006.
    • Harry Williams.: Ceylon Pearl of the East, Robert Hale Limited, London, Great Britain, 1950.
    • B. L. C. Johnson and M. Le M. Scrivenor.: Sri Lanka Land, People and Economy, Heinemann Educational Books Ltd, London, 1981.

    [sửa] Liên kết ngoài

    Portal Cổng tri thức Sri Lanka
    Tìm thêm thông tin về Sri Lanka bằng cách tìm kiếm tại một trong những đồng dự án khác của Wikipedia:

     Wiktionary (từ điển mở)
     Wikibooks (sách giáo khoa mở)
     Wikiquote (trích dẫn)
     Wikisource (thư viện mở)
     Commons (hình ảnh)

    Chính phủ

    Du lịch


    Kinh doanh

    Khác


    Các nướcNam Á

    Ấn Độ | Bangladesh | Bhutan | Maldives | Nepal | Pakistan | Sri Lanka


    Các nướcchâu Á

    Afghanistan | Ai Cập | Armenia1 | Azerbaijan1 | Ả Rập Xê Út | Ấn Độ | Bahrain | Bangladesh | Bhutan | Bờ Tây2 | Brunei | Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất | Campuchia | Dải Gaza2 | Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)4 | Đông Timor | Gruzia1 | Hàn Quốc | Hồng Kông3 | Indonesia | Iran | Iraq | Israel | Jordan | Kazakhstan1 | Kuwait | Kyrgyzstan | Lào | Liban | Ma Cao3 | Malaysia | Maldives | Mông Cổ | Myanma | Nepal | Nga1 | Nhật Bản | Oman | Pakistan | Palestin | Philippines | Qatar | Singapore | Síp1 | Sri Lanka | Syria | Tajikistan | Thái Lan | Thổ Nhĩ Kỳ1 | Triều Tiên | Trung Quốc | Turkmenistan | Uzbekistan | Việt Nam | Yemen

    1. Thường gắn với châu Á về mặt địa lý, tuy nhiên cho là thuộc Châu Âu về mặt văn hóa và lịch sử. 2. Lãnh thổ do Israel kiểm soát, Chính quyền Palestin quản lý. 3. Khu tự trị đặc biệt của CHNDTH. 4. Xem thêm: Vị thế chính trị Đài Loan

    Static Wikipedia (no images)

    aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -

    Static Wikipedia 2007 (no images)

    aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -

    Static Wikipedia 2006 (no images)

    aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu

    Static Wikipedia February 2008 (no images)

    aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu