Ebooks, Audobooks and Classical Music from Liber Liber
a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z





Web - Amazon

We provide Linux to the World


We support WINRAR [What is this] - [Download .exe file(s) for Windows]

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
SITEMAP
Audiobooks by Valerio Di Stefano: Single Download - Complete Download [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Alphabetical Download  [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Download Instructions

Make a donation: IBAN: IT36M0708677020000000008016 - BIC/SWIFT:  ICRAITRRU60 - VALERIO DI STEFANO or
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Myanma – Wikipedia tiếng Việt

Myanma

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

ပ္ရည္‌ထောင္‌စုမ္ရန္‌မာနိုင္‌ငံတော္‌
Pyi-daung-zu Myan-ma Naing-ngan-daw
Quốc kỳ của Mayanma Quốc huy của Mayanma
(Quốc kỳ) (Quốc huy)
Khẩu hiệu quốc gia:
Quốc ca: Ga Ba Majay Ba Ma Pyay
Bản đồ với nước Mayanma được tô đậm
Thủ đô Pyinmana

19°17′N 96°20′E

Thành phố lớn nhất Yangon
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Mayanma
Chính phủ
 • Chủ tịch Hội đồng Quốc gia
 • Thủ tướng
Độc tài quân phiệt
Than Shwe
Soe Win
Độc lập
Ngày
Từ Anh
1 tháng 1, 1948
Diện tích
 • Tổng số
 • Nước (%)
 
678.500 km² (hạng 39)
3,06%
Dân số
 • Ước lượng năm 2004
 • Thống kê dân số
 • Mật độ
 
54 triệu (hạng 27)

62 người/km²
HDI (2003) 0,578 (hạng 129) – trung bình
GDP
 • Tổng số (PPP)
 • Trên đầu người (PPP)
 
74,53 tỉ Mỹ kim (hạng 60)
1.800 Mỹ kim
Đơn vị tiền tệ Kayat (K, MMK)
Múi giờ
 • Quy ước giờ mùa hè
UTC+6.5
Không áp dụng
Tên miền Internet .mm (trước là .bu)
Mã số điện thoại +95

Myanma (tiếng Myanma: Myanma), tên đầy đủ là Liên bang Myanma (tiếng Myanma: Pyidaungzu Myanma Naingngandaw), còn có các tên cũ Miến Điện hay Diến Điện, là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn. Có 5.876 km đường biên giới với Trung Quốc (2.185 km), Thái Lan (1.800 km), Ấn Độ (1.463 km), Lào (235 km) và Bangladesh (193 km). Đường bờ biển dài 1.930 km. Diện tích 676.577 km².

Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanmar đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này thời hiện đại. Hệ thống chính trị của nước này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của Hội đồng hoà bình và phát triển quốc gia, chính phủ quân sự do Thống tướng Than Shwe lãnh đạo từ năm 1992. Từng là một nước thuộc địa bên trong Đế quốc Anh cho tới tận năm 1948, Myanmar tiếp tục đấu tranh cải thiện những căng thẳng sắc tộc, và vượt qua những cuộc đảo chính. Nền văn hoá nước này bị ảnh hưởng nhiều từ các nước xung quanh, dựa trên một hình thức Phật giáo duy nhất có hoà trộn các yếu tố địa phương.

Myanmar thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Việt Nam từ ngày 25 tháng 5 năm 1975.

Mục lục

[sửa] Lịch sử

Xem chi tiết: Lịch sử Myanmar
Các chùa và đền tại Bagan ngày nay, nơi từng là thủ đô của Vương quốc Pagan.
Các chùa và đền tại Bagan ngày nay, nơi từng là thủ đô của Vương quốc Pagan.

Người Mon được cho là nhóm người di cư sớm nhất tới vùng hạ châu thổ Ayeyarwady, và tới khoảng giữa những năm 900 họ đã có vị trí thống trị ở phía nam Miến Điện.[1] Người Pyu tới đây trong thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên và đã lập lên nhiều thành bang có quan hệ thương mại với Ấn ĐộTrung Quốc. Vương quốc mạnh nhất của người Pyu là Sri Ksetra, nhưng đó này vương quốc đã bị từ bỏ năm 656. Người Pyu tái lập vương quốc của mình vào giữa những năm 800 nhưng đã bị bị vương quốc của người Nanzhao xâm lược. Người Burman, hay Bamar, bắt đầu di cư tới châu thổ Ayeyarwady từ nơi là Tây Tạng hiện nay vào khoảng thời gian trước những năm 800. Tới năm 849, họ đã thành lập một vương quốc hùng mạnh tại trung tâm Pagan. Trong thời cầm quyền của Anawratha (1044-1077), ảnh hưởng của Burma đã mở rộng ra khắp Myanmar hiện nay. Tới những năm 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của Vương quốc Pagan, thường được gọi là Đế chế Miến Điện thứ nhất. Tới cuối những năm 1200, quân Mông Cổ của Kublai Khan đã xâm lược Vương quốc Pagan, nhưng tới năm 1364 người Miến Điện đã tái lập vương quốc của họ tại Ava, nơi văn hoá Miến Điện bắt đầu bước vào một giai đoạn phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, vào năm 1527 người Shan cướp phá Ava. Trong lúc ấy người Mon thiết lập một địa điểm mới của họ tại Pegu, nơi này đã trở thành một trung tâm tôn giáo và văn hoá lớn.

Những người Miến Điện đã phải chạy trốn khỏi Ava thành lập Vương quốc Toungoo năm 1531 tại Toungoo, dưới quyền Tabinshwehti, người đã tái thống nhất Miến Điện và lập ra Đế chế Miến Điện thứ hai. Vì sự ảnh hưởng ngày càng tăng từ Châu Âu ở Đông Nam Á, Vương quốc Toungoo trở thành một trung tâm thương mại lớn. Bayinnaung đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục các quốc gia Manipur, Chiang Mai, và Ayutthaya. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Toungoo. Anaukpetlun, người đá đẩy lùi những kẻ xâm lăng Bồ Đào Nha, đã lập nên một vương triều mới tại Ava năm 1613. Cuộc nổi dậy trong nước của người Mon, với sự trợ giúp của Pháp, khiến vương quốc sụp đổ năm 1752.

Một bản in thạch năm 1825 của Anh về ngôi chùa Shwedagon cho thấy buổi đầu xâm nhập của người Anh tại Miến Điện trong giai đoạn Chiến tranh Anh-Miến lần thứ nhất.
Một bản in thạch năm 1825 của Anh về ngôi chùa Shwedagon cho thấy buổi đầu xâm nhập của người Anh tại Miến Điện trong giai đoạn Chiến tranh Anh-Miến lần thứ nhất.

Alaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung và Đế chế Miến Điện thứ ba năm 1700s.[2] Năm 1767, Vua Hsinbyushin chinh phục Ayutthaya dẫn tới việc Văn hoá Thái Lan có ảnh hưởng lớn tới văn hoá Miến Điện. Nhà Thanh Trung Quốc, lo ngại sự lớn mạnh của Miến Điện, đã bốn lần xâm lược nước này trong khoảng thời gian từ 1766 đến 1769 nhưng không lần nào thành công. Các triều đại sau này mất quyền kiểm soát Ayutthaya, nhưng chiếm thêm được Arakan và Tenasserim. Dưới thời cai trị của Vua Bagyidaw, năm 1824, Mahabandoola chiếm Assam, sát lãnh thổ Anh ở Ấn Độ, gây nên một cuộc chiến tranh. Trong các cuộc chiến tranh Anh-Miến (1824–1826, 1851–1852 và 1885–1886), Miến Điện mất một số lãnh thổ vào tay người Anh và trở thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh. Ngày 1 tháng 4, 1937, Miến Điện trở thành một thuộc địa hành chính riêng biệt, độc lập khỏi quyền hành chính Ấn Độ. Trong thập niên 1940s, Ba mươi chiến hữu, do Aung San lãnh đạo đã lập nên Quân đội Miến Điện độc lập [3] Ba mươi chiến hữu được huấn luyện quân sự tại Nhật Bản.[3]

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai Miến Điện trở thành một mặt trận chính tại Mặt trận Đông Nam Á. Sau những thắng lợi ban đầu của Nhật Bản trong Chiến dịch Miến Điện, trong đó người Anh bị đẩy lùi khỏi đa phần Miến Điện, Đồng Minh đã phản công. Tới tháng 7, 1945 họ đã chiếm lại toàn bộ nước này. Người Miến Điện chiến đấu cho cả hai phía trong cuộc chiến. Họ chiến đấu trong Đội quân Miến Điện Anh năm 1941-1942. Năm 1943, Chin Levies và Kachin Levies đã được thành lập ở các quận biên giới Miến Điện và vẫn thuộc quyền kiểm soát của người Anh. Đội quân Miến Điện chiến đấu trong thành phần Chindits dưới quyền Tướng Orde Wingate từ 1943-1945. Ở giai đoạn sau của cuộc chiến, người Mỹ đã lập ra Đội biệt kích Kachin-Hoa Kỳ cũng chiến đấu cho quân Đồng Minh. Nhiều người Miến Điện khác chiến đấu trong lực lượng SOE của Anh. Quân đội Miến Điện độc lập dưới quyền chỉ huy của Aung San và Quân đội quốc gia Arakan đã chiến đấu với người Nhật Bản từ 1942-1944, nhưng đã nổi lên chống lại người Nhật năm 1945.

Năm 1947, Aung San trở thành Phó chủ tịch Uỷ ban hành pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp. Tuy nhiên, trong tháng 7, 1947, các đối thủ chính trị đã ám sát Aung San và nhiều thành viên chính phủ khác.[3] Ngày 4 tháng 1, 1948, quốc gia này trở thành một nước cộng hoà độc lập, với cái tên Liên bang Miến Điện, với Sao Shwe Thaik là Tổng thống đầu tiên và U Nu là Thủ tướng. Không giống như đa số các thuộc địa của của Anh, nước này không trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung bởi vì họ đã giành lại độc lập trước khi Khối thịnh vượng chung cho phép các nước cộng hoà trở thành một thành viên của nó. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia.[4] Vùng địa lý hiện nay của Miến Điện có thể suy ngược từ Thoả ước Panglong, là toàn bộ Miến Điện gồm Hạ Miến Điện và Thượng Miến Điện, và Các vùng biên giới, đã từng được quản lý hành chính độc lập bởi Anh Quốc.[5]

Hình:National League for Democracy.svg
Lá cờ của Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ được thể hiện bởi một chú 'gà chọi', một biểu tượng của tự do.[6]

Năm 1961 U Thant, khi ấy là Đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên hiệp quốc và cựu Thư ký Thủ tướng, được bầu làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc; ông là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây lãnh đạo bất kỳ một tổ chức quốc tế nào cho tới lúc ấy và sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong vòng mười năm.[7] Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên hiệp quốc khi ông đang giữ chức Tổng thư ký có cô gái trẻ Aung San Suu Kyi.

Giai đoạn dân chủ kết thúc năm 1962 với một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Ne Win lãnh đạo. Ông này sẽ cầm quyền trong 26 năm và theo đuổi chính sách xã hội chủ nghĩa. Năm 1974, đám tang của U Thant dẫn tới một cuộc biểu tình chống chính phủ đẫm máu.

Năm 1988, Cuộc nổi dậy 8888 đầy đất nước tới bờ vực cách mạng. Để đối phó, Tướng Saw Maung tiến hành một cuộc đảo chính. Ông thành lập Uỷ ban Luật pháp Quốc gia và Vãn hồi Trật tự (SLORC). Năm 1989, thiết quân luật được ban bố sau những cuộc biểu tình rộng lớn. Các kế hoạch bầu cử Quốc hội đã hoàn thành ngày 31 tháng 5, 1989.[8] Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do được tổ chức trong vòng 30 năm. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đảng của bà Aung San Suu Kyi, thắng 392 trong tổng số 485 ghế, nhưng các kết quả của cuộc bầu cử đã bị SLORC huỷ bỏ, và họ từ chối giao lại quyền lực.[9] SLORC đổi tên Miến Điện (Burma) thành 'Myanmar' trong tiếng Anh năm 1989. Dưới sự lãnh đạo của Than Shwe, từ năm 1992 chính quyền quân sự đã tiến hành các thoả thuận ngừng bắn với các nhóm du kích thiểu số. Năm 1992, SLORC tiết lộ các kế hoạch thành lập một hiến pháp mới thông qua Hội nghị Quốc gia, bắt đầu ngày 9 tháng 1, 1993.[10] Năm 1997, Uỷ ban Luật pháp Quốc gia và Vãn hồi Trật tự được đổi tên thành Uỷ ban Hoà bình và Phát triển Quốc gia (SPDC). Ngày 23 tháng 6, 1997, Myanmar được chấp nhận gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hội nghị Quốc gia tiếp tục được triệu tập và hoãn lại. Nhiều đảng chính trị lớn, đặc biệt Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đã bị trục xuất, và có ít tiến bộ đã được hoàn thành.[10] Ngày 27 tháng 3, 2006, hội đồng quân sự đã di chuyển thủ đô đất nước từ Yangon tới một địa điểm gần Pyinmana, đặt tên chính thức cho nó là Naypyidaw, có nghĩa "vùng đất của những ông vua".[11]

[sửa] Chính trị

Bài chính về chính trị và chính quyền của Myanmar có thể tìm đọc tại Loạt bài về chính trị và chính quyền của Myanmar.
Một khẩu hiệu của chính phủ tại Cung Mandalay viết "Tatmadaw [Các lực lượng vũ trang] và nhân dân, hợp tác tiêu diệt toàn bộ những vấn đề gây hại cho liên bang."
Một khẩu hiệu của chính phủ tại Cung Mandalay viết "Tatmadaw [Các lực lượng vũ trang] và nhân dân, hợp tác tiêu diệt toàn bộ những vấn đề gây hại cho liên bang."

Liên bang Myanmar là một chế độ quân sự. Các đại biểu được bầu ra trong cuộc bầu cử Quốc hội nhân dân năm 1990 hình thành nên Liên minh Chính phủ Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB), một chính phủ hải ngoại vào tháng 12 năm 1990, với trách nhiệm vãn hồi nền dân chủ tại Myanmar.[12] Sein Win, người anh họ của Aung San Suu Kyi, là thủ tướng hiện thời của NCGUB. Tuy nhiên, NCGUB có rất ít quyền lực và đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Myanmar. Lãnh đạo Nhà nước hiện nay là Thống tướng Than Shwe, người giữ chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Hoà Bình và Phát triển Quốc gia." Ông nắm mọi quyền lực quan trọng, gồm quyền bãi nhiệm các bộ trưởng và các thành viên chính phủ, đưa ra các quyết định quan trọng trong vấn đề chính trị đối ngoại.[13] Khin Nyunt từng là thủ tướng cho tới ngày 19 tháng 10, 2004, và đã bị thay thế bởi Tướng Soe Win, người có quan hệ mật thiết với Than Shwe. Đa số các bộ và các vị trí chính phủ đều do các sĩ quan quân đội nắm giữ, ngoại trừ Bộ y tế, Bộ giáo dục, Bộ lao động và Bộ kinh tế và kế hoạch quốc gia, do các viên chức dân sự quản lý.[14]

Các đảng chính trị lớn ở Myanmar gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vvà Liên đoàn Dân tộc Shan vì Dân chủ, dù các hoạt động của họ bị chế độ quản lý chặt chẽ. Nhiều đàng khác, thường đại diện cho lợi ích của các dân tộc thiểu số thực sự có tồn tại. Tại Myanmar ít có khoan dung chính trị cho phe đối lập, và nhiều đảng đã bị đặt ngoài vòng pháp luật. Đảng Thống nhất Quốc gia đại diện cho quân đội, và được sự ủng hộ của một tổ chức to lớn tên gọi Hiệp hội Liên đoàn Đoàn kết và Phát triển.[15] Theo nhiều tổ chức, gồm cả Human Rights Watch và Amnesty International, chính quyền này có bản thành tích nhân quyền kém cỏi.[16] Không có toà án độc lập tại Myanmar và đối lập chính trị với chính phủ quân sự không hề được khoan dung. Truy cập Internet tại Myanmar bị hạn chế chặt chẽ thông qua các phần mềm lọc các trang web có thể truy cập đối với công dân, hạn chế đa số các trang đối lập chính trị và ủng hộ dân chủ.[17] [18] Lao động cưỡng bức, buôn người, và lao động trẻ em là điều thông thường, và bất đồng chính trị không được khoan dung.[19]

Năm 1988, quân đội Miến Điện đã dùng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình phản đối sự quản lý kinh tế yếu kém và sự áp bức chính trị. Ngày 8 tháng 8, 1988, quân đội nổ súng vào những người biểu tình trong vụ việc được gọi là cuộc Nổi dậy 8888. Tuy nhiên, cuộc biểu tình năm 1988 đã dọn đường cho cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990. Kết quả của cuộc bẩu cử sau đó đã bị chính quyền bác bỏ. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, do Aung San Suu Kyi lãnh đạo thắng hơn 60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử 1990, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức trong 30 năm. Aung San Suu Kyi được quốc tế công nhận là một nhà hoạt động vì dân chủ tại Myanmar, đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1991. Bà đã nhiều lần bị quản thúc tại gia. Dù có lời kêu gọi trực tiếp từ Kofi Annan tới Than Shwe và áp lực của ASEAN, hội đồng quân sự Miến Điện vẫn kéo dài thời hạn quản thúc tại gia đối với Aung San Suu Kyi thêm một năm ngày 27 tháng 5, 2006 theo Luật Bảo vệ Quốc gia năm 1975, trao cho chính phủ quyền cầm giữ hợp pháp bất kỳ người nào.[20] [21] Hội đồng quân sự ngày phải đối mặt với sự cô lập quốc tế. Vào tháng 12 năm 2005, lần đầu tiên tình trạng của Myanmar đã được thảo luận không chính thức tại Liên hiệp quốc. ASEAN cũng đã bày tỏ sự thất vọng của mình với chính phủ Myanmar. Tổ chức này đã thành lập Cuộc họp kín liên nghị viện ASEAN đề bàn bạc về sự thiếu dân chủ tại Myanmar.[22] Sự thay đổi chính trị lớn ở nước này hiện vẫn khó xảy ra, vì sự ủng hộ từ các cường quốc trong vùng, đặc biệt là Trung Quốc.[23] [24]

[sửa] Quan hệ đối ngoại và Quân đội

Xem chi tiết: Quan hệ nước ngoài của Myanmar và Quân đội Myanmar

Quan hệ nước ngoài của Myanmar, đặc biệt với các nước phương Tây, đã rơi vào tình trạng căng thẳng. Hoa Kỳ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt rộng lớn với Myanmar vì sự đàn áp quân sự năm 1988 và vì sự từ chối thừa nhận các kết quả cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990 của chế độ quân sự. Tương tự, Liên minh Châu Âu đã áp đặt lệnh cấm vận lên Myanmar, gồm cả cấm vận vũ khí, ngừng ưu tiên thương mại và hoãn toàn bộ viện trợ ngoại trừ viện trợ nhân đạo.[25] Những biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu chống lại chính phủ quân sự, cộng với sự tẩy chay và những sức ép trực tiếp khác từ người dân ở các nước phương Tây ủng hộ phong trào dân chủ Miến Điện, khiến đa số các công ty Hoa Kỳ và Châu Âu phải rời khỏi nước này. Tuy nhiên, nhiều công ty khác vẫn còn ở lại nhờ các kẽ hở của biện pháp cấm vận. Nói chung các tập đoàn ở Châu Á vẫn muốn đầu tư vào Myanmar và tiến hành thực hiện các dự án đầu tư mới, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Công ty dầu mỏ Pháp Total S.A. hiện đang điều hành đường ống dẫn khí Yadana từ Miến Điện tới Thái Lan dù có lệnh cấm vận của Liên minh Châu Âu với Myanmar. Total hiện là bị đơn của nhiều vụ khiếu kiện tại Pháp liên quan tới cái gọi là mối quan hệ với những vụ vi phạm nhân quyền liên quan tới đường ống dẫn khí họ đang đồng sở hữu với các công ty Hoa Kỳ Chevron và Tatmadaw. Trước khi bị Chevron thâu tóm, Unocal đã giải quyết một vụ kiện tụng liên quan tới nhân quyền với phí tổn được thông báo lên tới nhiều triệu dollar. [26] Vẫn còn những cuộc tranh cãi sôi nổi về việc liệu các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ có mang lại kết quả trái ngược trên cuộc sống của người dân chứ không phải với những nhà cầm quyền quân sự.[27] [28]

Các lực lượng vũ trang Myanmar được gọi là Tatmadaw, với số lượng 488,000 người.[29] Tatmadaw gồm Các lực lượng vũ trang, Hải quân, và Không Quân. Myanmar được xếp hạng thứ mười trên thế giới theo số lượng binh lính của mình.[29] Quân đội có nhiều ảnh hưởng trong nước, các vị trí chủ chốt trong chính phủ và trong quân đội đều do các sĩ quan quân sự nắm giữ. Dù những con số chính thức về chi tiêu quân sự của Miến Điện không được công bố, Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, trong bảng xếp hạng hàng năm của mình đã đặt Myanmar trong tốp 15 nước chi tiêu quân sự nhiều nhất thế giới.[30]

[sửa] Vùng hành chính

Xem chi tiết: Các vùng hành chính Myanmar
14 bang và vùng hành chính tại Myanmar.
14 bang và vùng hành chính tại Myanmar.

Myanmar được chia thành 7 bang và 7 vùng.[31] Vùng lớn nhất (Image:Tain.png) là Bamar. Các bang (Image:Pyinè.png), thực chất, là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực, và các làng. Các thành phố lớn được chia thành các quận.

[sửa] Vùng hành chính

  • Vùng Ayeyarwady
  • Vùng Bago
  • Vùng Magway
  • Vùng Mandalay
  • Vùng Sagaing
  • Vùng Tanintharyi
  • Vùng Yangon

[sửa] Bang

  • Bang Chin
  • Bang Kachin
  • Bang Kayin
  • Bang Kayah
  • Bang Mon
  • Bang Rakhine
  • Bang Shan


[sửa] Địa lý

Xem chi tiết: Địa lý Myanmar

Myanmar có tổng diện tích 678,500 kilômét vuông (261,970 dặm vuông), là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới (sau Zambia). Nước này hơi nhỏ hơn bang Texas Hoa Kỳ và hơi lớn hơn Afghanistan.

Myanmar nằm giữa Khu Chittagong của Bangladesh và Assam, Nagaland và Manipur của Ấn Độ ở phía tây bắc. Nó có đường biên giới dài nhất với Tây TạngVân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2,185 km (1,358 dặm).[29] Myanmar giáp biên giới với LàoThái Lan ở phía đông nam. Myanmar có đường bờ biển dài 1,930 km (1,199 dặm) dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới.[29]

Hình:Satellite image of the Ayeyarwady delta.jpg
Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50,400 kilômét vuông, phần lớn canh tác lúa gạo.[32]

Ở phía bắc, núi Hengduan Shan tạo nên biên giới với Trung Quốc. Hkakabo Razi, nằm tại Bang Kachin, ở độ cao 5,881 m (19,295 feet), là điểm cao nhất Myanmar.[33] Ba dãy núi, Rakhine Yoma, Bago Yoma, và Cao nguyên Shan nằm bên trong Myanmar, cả ba đều chạy theo hướng bắc-nam từ dãy Himalayas.[34]Các dãy núi phân chia ba hệ thống sông của Myanmar, là Ayeyarwady,

Hình:Irrawaddy.jpg
Ayeyerwady, gần Mingun.

Thanlwin, và Sittang.[32] Sông Ayeyarwady, con sông dài nhất Myanmar, gần 2,170 km (1,348 dặm), chảy vào Vịnh Martaban. Các đồng bằng màu mỡ nằm ở các thung lũng giữa các dãy núi.[34] Đa số dân cư Myanmar sống trong thung lũng Ayeyarwady, nằm giữa Rakhine Yoma và Cao nguyên Shan.

Đa phần diện tích Myanmar nằm giữa Hạ chí tuyếnXích đạo. Myanmar nằm trong vùng gió mùa Châu Á, các vùng bờ biển của nó nhận lượng mưa trung bình 5,000 mm (197 in) hàng năm. Lượng mưa hàng năm tại vùng đồng bằng gần 2,500 mm (98 in), trong khi lượng mưa trung bình hàng năm tại Vùng Khô, nằm ở trung tâm Myanmar, chưa tới 1,000 mm (39 in). Các vùng phía bắc đất nước có khí hậu lạnh nhất, nhiệt độ trung bình 21°C (70°F). Các vùng duyên hải và đồng bằng có khí hậu trung bình 32°C (90°F).[32]

Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanmar góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanmar, bao phủ 49% diện tích đất nước.[35] Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, cây keo, tre, lim, đước, dừa, cọ. Trên những cao nguyên phía bắc, sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác bao phủ đa phần diện tích.[35] Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn trái nhiệt đói. Tại Vùng Khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn.

Các loại động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanmar. Ở vùng thượng Myanmar, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà, sử dụng nhiều nhất trong công nghiệp khai thác gỗ. Các loài có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều từ vượn, khỉ tới cáo bay và heo vòi. Đáng chú ý là sự đa dạng các loài chim với hơn 800 loài gồm vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc, và gõ kiến (paddybird). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn, và rùa. Hàng trăm loài nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng.[36]

Năm 1994, đất canh tác 15,3% (2% có tưới), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, vonfram, chì, than, đá quý.

[sửa] Kinh tế

Xem chi tiết: Kinh tế Myanmar
Hình:Sakuratoweryangon.jpg
Tháp Sakura tại Yangon rõ ràng đang trống rỗng vì thiếu đầu tư nước ngoài.

Myanmar là một trong những nước nghèo nhất thế giới với hàng thập kỷ ở trong tình trạng trì trệ, quản lý kém và bị cô lập. Sau khi một chính phủ nghị viện được thành lập năm 1948, Thủ tướng U Nu đã nỗ lực biến Miến Điện trở thành một quốc gia thịnh vượng. Chính quyền của ông đã thông qua Kế hoạch kinh tế hai năm nhưng tiếc thay đây là một kế hoạch sai lầm.[37] Vụ đảo chính năm 1962 tiếp sau là một kế hoạch phát triển kinh tế được gọi là Con đường Miến Điện tiến tới Chủ nghĩa xã hội, một kế hoạch nhằm quốc hữu hoá mọi ngành công nghiệp, ngoại trừ nông nghiệp. Năm 1989, chính phủ Miến Điện bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hoá nền kinh tế và tự do hoá một số lĩnh vực kinh tế.[38] Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác.

Các loại hàng hoá ở thành thị thường được vận chuyển bởi phu khuân vác, như thấy trong khu phố Tầu tại Yangon.
Các loại hàng hoá ở thành thị thường được vận chuyển bởi phu khuân vác, như thấy trong khu phố Tầu tại Yangon.

Myanmar bị liệt vào hạng nước kém phát triển nhất năm 1987.[39] Từ năm 1992, khi Than Shwe lên lãnh đạo quốc gia, chính phủ đã khuyến khích du lịch. Tuy nhiên, chưa tới 750,000 du khách tới nước này hàng năm.[40] Các doanh nghiệp tư nhân thường là đồng sở hữu hay thuộc sở hữu trực tiếp của Tatmadaw. Trong những năm gần đây, cả Trung QuốcẤn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế. Nhiều quốc gia khác, trong đó gồm cả Hoa Kỳ, Canada, và Liên minh Châu Âu, đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanmar. Đầu tư nước ngoài chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Thái Lan.[41]

Ở thời thuộc địa Anh, Miến Điện là một trong những nước giàu có nhất vùng Đông Nam Á. Đây là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thông qua Công ty Dầu khí Miến Điện. Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao.[42] Nước này từng được tin tưởng sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng.[42]

Ngày nay, Myanmar thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Trao đổi hàng hoá chủ yếu qua biên giới Miến Điện Thái Lan, và đó cũng là đầu mối xuất khẩu ma tuý lớn nhất, và dọc theo Sông Ayeyarwady. Đường sắt cũ kỹ và mới ở mức kỹ thuật sơ khai, hiếm khi được sửa chữa từ khi được xây dựng những năm 1800.[43] Đường giao thông thường không được trải nhựa, trừ tại các thành phố lớn.[43] Thiếu hụt năng lượng là điều thường thấy trong nước, kể cả tại Yangon. Myanmar cũng là nước sản xuất thuốc phiện lớn thứ hai thế giới, chiếm 8% tổng lượng sản xuất toàn cầu và là nguôn cung cấp các tiền chất ma tuý lớn gồm cả amphetamines.[44] Các ngành công nghiệp khác gồm sản phẩm nông nghiệp, dệt may, sản phẩm gỗ, vật liệu xây dựng, kim cương, kim loại, dầu mỏ và khí ga. Việc thiếu hụt nguồn nhân công trình độ cao cũng là một vấn đề ngày càng tăng đối với kinh tế Miến Điện.[45]

Nông nghiệp chiếm 59,5% GDP và 65,9% lao động. Công nghiệp chế biến chiếm 7,1% GDP và 9,1% lao động; khai khoáng 0,5% GDP và 0,7% lao động; xây dựng 2,4% GDP và 2,2% lao động; thương mại 23,2% GDP và 9,7% lao động; tài chính, dịch vụ và công chính 1,5% GDP và 8,1% lao động. GDP/đầu người: 2.399 USD (1995); GNP/đầu người: 2610 USD (1996). Sản phẩm nông nghiệp chính (1999): lúa 17 triệu tấn, mía 5,4 triệu tấn, đậu 1,9 triệu tấn, lạc 562 nghìn tấn, ngô 303 nghìn tấn, vừng 210 nghìn tấn, bông 158 nghìn tấn. Chăn nuôi: 10,7 triệu, lợn 3,7 triệu, trâu 2,4 triệu, cừu và dê 1,7 triệu, vịt 6,1 triệu, gà 39 triệu. Gỗ tròn 22,4 triệu m³ (1998). Đánh bắt cá 917,7 nghìn tấn (1997). Sản phẩm công nghiệp chính: khai khoáng (đồng 14,6 nghìn tấn, thạch cao 40,6 nghìn tấn, chì 1,6 nghìn tấn, thiếc 154 tấn); chế biến (xi măng 513 nghìn tấn, phân hoá học 66 nghìn, đường 43 nghìn; 1996). Năng lượng (1996): điện 4,3 tỉ kW.h, than 72 nghìn tấn, dầu thô 2,8 triệu thùng, khí đốt 1,6 tỉ m³. Giao thông: đường sắt 3955 km (1999-2000), đường bộ 28,2 nghìn km (1996, rải nhựa 12%).

Xuất khẩu (1997-98) 5,4 tỉ kyat (nông sản 26,9%, gỗ và cao su 15,7%). Bạn hàng chính: Singapore 13,2%; Thái Lan 11,9%; Ấn Độ 22,6%; Trung Quốc 10,6%; Hồng Kông 5,8%.

Nhập khẩu (1997-98) 12,7 tỉ kyat (máy móc và thiết bị vận tải 28,6%, tư liệu sản xuất 48%, hàng tiêu dùng 4,3%). Bạn hàng chính: Singapore 31,1%, Thái Lan 9,8%, Trung Quốc 9,4%, Malaysia 7%.

Đơn vị tiền tệ: kyat Myanma. Tỉ giá hối đoái: 1USD = 6,25 kyat (10/2000).

[sửa] Nhân khẩu

Xem chi tiết: Nhân khẩu Myanmar
Một toà nhà chung cư tại khu kinh doanh Yangon, đối diện Chợ Bogyoke. Đa số dân đô thị Yangon sống trong những khu chung cư đông đúc.
Một toà nhà chung cư tại khu kinh doanh Yangon, đối diện Chợ Bogyoke. Đa số dân đô thị Yangon sống trong những khu chung cư đông đúc.

Myanmar có dân số khoảng 40 tới 55 triệu người.[46] Con số dân cư hiện tại chỉ là ước tính bởi vì cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc cuối cùng, do Bộ Nội và các Vấn đề Tôn giáo tiến hành, đã xảy ra từ năm 1983.[47] Có hơn 600,000 công nhân nhập cư Myanmar có đăng ký tại Thái Lan, và hàng triệu người lao động bất hợp pháp khác. Những công nhân nhập cư Miến Điện chiếm 80% số lao động nhập cư tại Thái Lan.[48] Mật độ dân số bình quân của Myanmar là 75 người trên km², một trong những mức thấp nhất vùng Đông Nam Á. Các trại tị nạn tồn tại dọc theo biên giới Ấn Độ-Myanmar, Bangladesh-Myanmar và Myanmar-Thái Lan và hàng ngàn người khác sống tại Malaysia. Những ước tính thận trọng cho rằng hơn 295,800 người tị nạn từ Myanmar, đa số là người Rohingya, Kayin, và Karenni.[49]

Một cô gái thuộc cộng đồng thiểu số Padaung, một trong nhiều dân tộc thiểu số tạo nên dân số Myanmar.
Một cô gái thuộc cộng đồng thiểu số Padaung, một trong nhiều dân tộc thiểu số tạo nên dân số Myanmar.

Myanmar rất đa dạng về chủng tộc dân cư. Dù chính phủ công nhận 135 dân tộc khác nhau, con số thực thấp hơn nhiều.[50] Người Bamar chiếm khoảng 68% dân số.[51] 10% là người Shan.[51] Người Kayin chiếm 7% dân số.[51] Người Rakhine chiếm 4%. Người Hoa chiếm gần 3% dân số.[52] [51] Người Mon, chiếm 2% dân số, là nhóm người có quan hệ dân tộc và ngôn ngữ với người Khmer.[51] Người Ấn chiếm 2%[51] Số còn lại là người Kachin, Chin, và các nhóm thiểu số khác.

Myanmar có bốn ngữ hệ chính: Hán-Tạng, Austronesian, Tai-Kadai, và Ấn Âu.[53] Các ngôn ngữ hệ Hán-Tạng được sử dụng nhiều nhất. Chúng gồm tiếng Miến Điện, Karen, Kachin, Chin, và tiếng Hoa. Ngôn ngữ Tai-Kadai chính là tiếng Shan. Tiếng Mon là ngôn ngữ Austronesian chính được sử dụng ở Myanmar. Hai ngôn ngữ Ấn-Âu chính là Pali, ngôn ngữ dùng trong nghi thức của Phật giáo Tiểu thửa và tiếng Anh.[54]

Theo Viện Thống kê UNESCO, tỷ lệ biết đọc biết viết chính thức của Myanmar năm 2000 là 89.9%.[55] Về mặt lịch sử, Myanmar có tỷ lệ biết chữ cao. Nhằm đạt mức đánh giá tình trạng quốc gia kém phát triển của Liên hiệp quốc để được cho vay vốn, Myanmar đã hạ thấp mức biết chữ của nước mình từ 78.6% xuống còn 18.7% năm 1987.[56] Tuy nhiên, Bộ Quốc gia Hoa Kỳ ước tính số người biết chữ thực là 30%.[51]

Phật giáo tại Myanmar chủ yếu là phái Tiểu thừa hoà trộn với những đức tin bản địa. 89% dân số nước này theo Phật giáo Tiểu thừa, gồm người Bamar, Rakhine, Shan, Mon, và Hoa. 4% dân số là tín đồ Thiên chúa giáo, chủ yếu là những cư dân vùng cao như Kachin, Chin và Kayin, và Âu Á bởi vì các nhà truyền giáo thường tới các vùng này. Đa số tín đồ Thiên Chúa giáo là Tin lành, đặc biệt là phái Baptist của Hội nghị Baptist Myanmar. Cơ đốc giáo có 1% tín đồ còn lại. 4% dân số theo Hồi giáo, chủ yếu là dòng Sunni.[57] Hồi giáo thường phát triển trong các cộng đồng dân cư Ấn Độ, Ấn Miến, Ba Tư, Ả rập, Panthay, và Rohingya. Những người dân theo Hồi giáo và Thiên chúa giáo không có vị trí quan trọng trong xã hội và thường sống cô lập.[57] [58] Một số nhỏ dân cư theo Hindu giáo.

[sửa] Văn hoá

Xem chi tiết: Văn hoá Myanmar
Hình:Earpiercingceremony.jpg
An ear-piercing ceremony at the Mahamuni Pagoda in Mandalay is one of the many coming-of-age ceremonies in Burmese culture.

Dù có nhiều nền văn hóa bản xứ tồn tại ở Myanmar, nền văn hóa chiếm vị trí trọng yếu là Phật giáo và Bamar. Văn hóa Bamar từng bị ảnh hưởng từ các nền văn hóa các nước xung quanh. Nó được biểu hiện qua ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc, nhảy múa và sân khấu. Nghệ thuật, đặc biệt là văn học, trong lịch sử từng bị ảnh hưởng bởi phong cách Phật giáo tiểu thừa Miến Điện. Nếu coi thiên sử thi quốc gia của Myanmar, Yama Zatdaw, là một sự phóng tác theo Ramayana, thì nó đã mang nhiều nét ảnh hưởng lớn từ các văn bản Thái, Mon, và Ấn Độ của vở kịch này.[59] Phật giáo cùng sự thờ phụng nat liên quan tới những nghi lễ phức tạp hay đơn giản từ một đền bách thần gồm 37 nat.[60] [61]

Trong các làng Miến Điện truyền thống, chùa chiền là trung tâm của đời sống văn hoá. Các nhà sư được sùng kính và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng họ. Lễ nhập tu được gọi là shinbyu là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng nhất của một chú bé khi vào chùa tu trong một khoảng thời gian ngắn.[62] Các cô bé cũng có lễ xuyên lỗ tai (Image:Nathwin.gif) khi đến tuổi trưởng thành.[62] Văn hóa Miến Điện được thể hiện rõ rệt nhất tại những ngôi làng nơi các lễ hội địa phương được tổ chức trong suốt năm, lễ hội quan trọng nhất là lễ chùa.[63] [64]Nhiều làng xã ở Miến Điện có quy ước, các phong tục mê tín và những điều cấm kị riêng.

Thời kỳ cai trị thuộc địa của Anh cũng đã để lại một số ảnh hưởng phương Tây trong văn hóa Myanmar. Hệ thống giáo dục Myanmar theo khuôn mẫu hệ thống giáo dục Anh Quốc. Những ảnh hưởng kiến trúc thuộc địa là điều dễ nhận thấy nhất tại các thành phố lớn như Yangon.[65] Nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Karen ở phía đông nam và người Kachin, người Chin sống ở phía bắc và tây bắc, theo Thiên chúa giáo nhờ công của các nhà truyền giáo.[66]

Những người đi tu được kính trọng trên khắp Myanmar, đây là một trong những quốc gia có đa số Phật giáo tiểu thừa trên thế giới.
Những người đi tu được kính trọng trên khắp Myanmar, đây là một trong những quốc gia có đa số Phật giáo tiểu thừa trên thế giới.

[sửa] Ngôn ngữ

Xem chi tiết: Ngôn ngữ Miến Điện

Tiếng Miến Điện, tiếng mẹ đẻ của người Bamar và là ngôn ngữ chính thức của Myanmar, về mặt ngôn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạngtiếng Trung Quốc.[54] Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình tròn và nửa hình tròn, có nguồn gốc từ ký tự Mon. Bảng chữ cái Miến Điện được phỏng theo ký tự Mon, ký tự Mon được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong những năm 700. Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự Miến Điện được biết tới từ những năm 1000. Ký tự này cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Tiểu thừa. Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan, nhiều thổ ngữ Karen, và Kayah (Karenni), ngoài ra mỗi ngôn ngữ còn có thêm nhiều ký tự và dấu phụ đặc biệt khác.[67] Ngôn ngữ Miến Điện sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác.[63] Xã hội Miến Điện truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ.

[sửa] Ẩm thực

Xem chi tiết: Ẩm thực Myanmar

Ẩm thực Miến Điện bị ảnh hưởng nhiều từ ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, Thái, và các nền văn hóa ẩm thực của các dân tộc thiểu số khác.[68] Món chủ yếu trong ẩm thực Miến Điện là gạo. Mỳ và bánh mì cũng là các món thường thấy. Ẩm thực Miến Điện thường sử dụng tôm, và , patê cá lên men, thịt lợn và thịt cừu.[68] Thịt bò, bị coi là món cấm kỵ, rất hiếm được sử dụng. Các món cà ri, như masala và ớt khô cũng được dùng. Mohinga, thường được coi là món quốc hồn Myanmar, gồm nước luộc cá trê có gia vị cà ri và hoa đậu xanh, miếnnước mắm.[69] Các loại quả nhiệt đới thường dùng làm đồ tráng miệng. Các thành phố lớn có nhiều phong cách ẩm thực gồm cả Shan, Trung Quốc và Ấn Độ.

[sửa] Âm nhạc

Xem chi tiết: Âm nhạc Myanmar

Âm nhạc truyền thống Miến Điện du dương nhưng không hài hoà. Các nhạc cụ gồm một bộ trống được gọi là pat waing, một bộ cồng gọi là kyi waing, một đàn tre (bamboo xylophone) gọi là pattala, chũm choẹ, nhạc cụ bộ hơi như hnè hay ôboa (oboe) và sáo, bamboo clappers, và nhạc cụ bộ dây, thường được kết hợp thành một giàn giao hưởng gọi là saing waing.[64] [62] Saung gauk, một nhạc cụ bộ dây hình chiếc thuyền gồm các dây tơ và thủy tinh trang trí dọc theo thân từ lâu đã đi liền với văn hóa Miến Điện.[70] Từ những năm 1950, các nhạc cụ phương Tây đã trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn.[71]

[sửa] Tôn giáo

Thống kê 1983: Phật giáo 89%, đạo Cơ đốc 4,9%, Hồi giáo 3,8%.

[sửa] Xem thêm

  • Ẩm thực Myanmar
  • Lịch sử giáo hội Miến Điện
  • Văn học Myanmar
  • Âm nhạc Myanmar
  • Vận tải tại Myanmar

[sửa] Ghi chú

  1. George Aaron Broadwell; Dept. of Anthropology; University at Albany, Albany, NY; accessed July 11, 2006
  2. An Account of An Embassy to the Kingdom of Ava by Michael Symes,1795.
  3. 3,0 3,1 3,2 Houtman, Gustaaf (1999). Mental Culture in Burmese Crisis Politics: Aung San Suu Kyi and the National League for Democracy. ISBN 4-8729-7748-3.
  4. The Constitution of the Union of Burma. DVB (1947). Được truy cập ngày 2006-07-07.
  5. Smith, Martin (1991). Burma -Insurgency and the Politics of Ethnicity, 42-43, London and New Jersey: Zed Books.
  6. Honoring those who fought for freedom "Golden Anniversary". Mainichi Daily News. National Coalition Government of Union of Burma (1998-01-12). Được truy cập ngày 2006-07-10.
  7. Aung Zaw. Can Another Asian Fill U Thant's Shoes?. The Irrawaddy Sep 2006. Được truy cập ngày 2006-09-12.
  8. PYITHU HLUTTAW ELECTION LAW. State Law and Order Restoration Council. iBiblio.org (1989-05-31). Được truy cập ngày 2006-07-11.
  9. Khin Kyaw Han (2003-02-01). 1990 MULTI-PARTY DEMOCRACY GENERAL ELECTIONS. National League for Democracy. iBiblio.org. Được truy cập ngày 2006-07-11.
  10. 10,0 10,1The National Convention”, The Irrawaddy, 2004-03-31. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-14.
  11. Burma's new capital stages parade”, BBC News, 2006-03-27. Địa chỉ URL được truy cập 2006-06-24.
  12. The Birth Of The NCGUB. National Coalition Government of the Union of Burma. Được truy cập ngày 2006-07-19.
  13. Aung Zaw, “Than Shwe—Man in the Iron Mask”, The Irrawaddy. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-19.
  14. Chiefs of State and Cabinet Members of Foreign Governments: Burma. Central Intelligence Agency (2006-06-02). Được truy cập ngày 2006-07-11.
  15. McCain, John (2003-05-11). Crisis in Rangoon. National Review Online. Được truy cập ngày 2006-07-14.
  16. Brad Adams. Statement to the EU Development Committee. Human Rights Watch. Được truy cập ngày 2006-07-11.
  17. Internet Filtering in Burma in 2005: A Country Study”, OpenNet Initiative.
  18. Burma bans Google and gmail”, BurmaNet News, 2006-06-27. Địa chỉ URL được truy cập 2006-06-28.
  19. Myanmar: 10th anniversary of military repression. Amnesty International (1998-08-07). Được truy cập ngày 2006-07-14.
  20. The Irrawaddy, “Suu Kyi’s Detention Extended, Supporters likely to Protest”, The Irrawaddy, 2006-05-27. Địa chỉ URL được truy cập 2006-05-27.
  21. The Irrawaddy, “Opposition Condemns Extension of Suu Kyi’s Detention”, The Irrawaddy, 2006-05-27. Địa chỉ URL được truy cập 2006-05-27.
  22. About Us. ASEAN Inter-Parliamentary Myanmar Caucus. Được truy cập ngày 2006-07-09.
  23. Poon, Khim Shee (2002). The Political Economy of China-Myanmar Relations: Strategic and Economic Dimensions (PDF). Ritsumeikan University. Được truy cập ngày 2006-07-14.
  24. Selth, Andrew (Spring 2002). Burma and Superpower Rivalries in the Asia-Pacific. Naval War College Review. Được truy cập ngày 2006-07-16.
  25. The EU's relations with Burma / Myanmar. European Union. Được truy cập ngày 2006-07-13.
  26. Dilemma of dealing with Burma”, BBC News, 2004-10-20. Địa chỉ URL được truy cập 2004-11-02.
  27. How Best to Rid the World of Monsters”, Washington Post, 2003-06-23. Địa chỉ URL được truy cập 2006-05-24.
  28. Reuters Belgian group seeks Total boycott over Myanmar”, Ibiblio, Reuters, 1999-05-10. Địa chỉ URL được truy cập 2006-06-24.
  29. 29,0 29,1 29,2 29,3 CIA Factbook
  30. Starck, Peter (2005-06-07). World Military Spending Topped $1 Trillion in 2004. Reuters. Common Dreams NewsCenter. Được truy cập ngày 2006-07-19.
  31. Administrative divisions. The World Factbook. Central Intelligence Agency (2006-06-29). Được truy cập ngày 2006-07-09.
  32. 32,0 32,1 32,2 Thein, Myat (2005). Economic Development of Myanmar. ISBN 9-8123-0211-5.
  33. (2000) Dr. Patrick Hesp et al. Geographica's World Reference, 738, 741, Random House Australia.
  34. 34,0 34,1 Than, Mya (2005). Myanmar in ASEAN: Regional Co-operation Experience. ISBN 9-8123-0210-7.
  35. 35,0 35,1 Myanmar's Forest Law and Rules BurmaLibrary.org Accessed July 15, 2006
  36. "Flora and Fauna" at Myanmars.net
  37. Watkins, Thayer. Political and Economic History of Myanmar (Burma) Economics. San José State University. Được truy cập ngày 2006-07-08.
  38. Stephen Codrington (2005). Planet geography, 559, Solid Star Press.
  39. List of Least Developed Countries. UN-OHRLLS (2005).
  40. Henderson, Joan C.. The Politics of Tourism in Myanmar. Nanyang Technological University. Được truy cập ngày 2006-07-08.
  41. Fullbrook, David. “So long US, hello China, India”, Asia Times, 2004-11-04. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-14.
  42. 42,0 42,1
  43. 43,0 43,1 Challenges to Democratization in Burma (PDF). International IDEA (tháng November năm 2001). Được truy cập ngày 2006-07-12.
  44. Myanmar Country Profile (PDF). Office on Drugs and Crime các trang 5-6. United Nations (tháng December năm 2005). Được truy cập ngày 2006-07-09.
  45. Brown, Ian (2005). A Colonial Economy In Crisis, Routledge. ISBN 0-4153-0580-2.
  46. POPULATION AND SOCIAL INTEGRATION SECTION (PSIS). UN Economic and Social Commission for Asia and the Pacific.
  47. Conflict and Displacement in Karenni: The Need for Considered Responses. PDF. Burma Ethnic Research Group (tháng May năm 2000). Được truy cập ngày 2006-07-13.
  48. Thailand: The Plight of Burmese Migrant Workers. Amnesty International (2006-06-08). Được truy cập ngày 2006-07-13.
  49. Myanmar Refugees in South East Asia. PDF. UNHCR (tháng April năm 2006). Được truy cập ngày 2006-07-13.
  50. Gamanii, “135: Counting Races in Burma”, The New Era Journal. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-22.
  51. 51,0 51,1 51,2 51,3 51,4 51,5 51,6
  52. Mya Than (1997). Leo Suryadinata Ethnic Chinese As Southeast Asians. ISBN 0-3121-7576-0.
  53. Gordon, Raymond G., Jr. (2005). Languages of Myanmar. SIL International. Được truy cập ngày 2006-07-14.
  54. 54,0 54,1 Gordon, Raymond G., Jr. (2005). Language Family Trees: Sino-Tibetan. Ethnologue: Languages of the World, Fifteenth edition. SIL International. Được truy cập ngày 2006-07-09.
  55. Adult (15+) Literacy Rates and Illiterate Population by Region and Gender for 2000-2004 (XLS). UNESCO Institute of Statistics (tháng April năm 2006). Được truy cập ngày 2006-07-13.
  56. (1998) Robert I Rotberg Burma: Prospects for a Democratic Future.
  57. 57,0 57,1 Priestly, Harry. “The Outsiders”, The Irrawaddy, 2006-01. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-07.
  58. Samuel Ngun Ling (2003). The Encounter of Missionary Christianity and Resurgent Buddhism in Post-colonial Myanmar (PDF). Payap University. Được truy cập ngày 2006-07-14.
  59. Ramayana in Myanmar's heart. Goldenland Pages (2003-09-13). Được truy cập ngày 2006-07-13.
  60. Temple, R.C. (1906). The Thirty-seven Nats-A Phase of Spirit-Worship prevailing in Burma.
  61. The Worshipping of Nats - The Special Festival of Mount Popa.
  62. 62,0 62,1 62,2 Khin Myo Chit (1980). Flowers and Festivals Round the Burmese Year.
  63. 63,0 63,1 Tsaya (1886). Myam-ma, the home of the Burman, 36-37, Calcutta: Thacker, Spink and Co..
  64. 64,0 64,1 Shway Yoe (1882). The Burman - His Life and Notions, 211-216,317-319, New York: Norton Library 1963.
  65. Martin, Steven. “Burma maintains bygone buildings”, BBC News, 2004-03-30. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-09.
  66. Scott O'Connor, V. C. (1904). The Silken East - A Record of Life and Travel in Burma, 32, Scotland 1993: Kiscadale.
  67. Proposal for encoding characters for Myanmar minority languages in the UCS (PDF). International Organization for Standardization (2006-04-02). Được truy cập ngày 2006-07-09.
  68. 68,0 68,1 Kong, Foong Ling (2002). Food of Asia, Tuttle Publishing. ISBN 0-7946-0146-4.
  69. Get a taste of Myanmar’s national dish”, Indo-Asian News Service, PlanetGuru.
  70. Postcard of Saung Gauk (arched harp). National Music Museum. University of South Dakota (2004-10-18). Được truy cập ngày 2006-07-15.
  71. Myanmar worries as rappers upstage traditional xylophones”, Agence France Presse, BurmaNet News, 2005-09-28. Địa chỉ URL được truy cập 2006-07-15.

[sửa] Liên kết ngoài

Tìm thêm thông tin về Myanma bằng cách tìm kiếm tại một trong những đồng dự án khác của Wikipedia:

 Wiktionary (từ điển mở)
 Wikibooks (sách giáo khoa mở)
 Wikiquote (trích dẫn)
 Wikisource (thư viện mở)
 Commons (hình ảnh)


Các nước Đông Nam Á

Brunei | Campuchia | Đông Timor | Indonesia | Lào | Malaysia | Myanma | Philippines | Singapore | Thái Lan | Việt Nam

Vùng tranh chấp: Quần đảo Hoàng Sa | Quần đảo Trường Sa


Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) Cờ ASEAN
Brunei | Campuchia | Indonesia | Lào | Malaysia | Myanma | Philippines | Singapore | Thái Lan | Việt Nam | Papua Tân Guinea (thành viên quan sát)


Các nướcchâu Á

Afghanistan | Ai Cập | Armenia1 | Azerbaijan1 | Ả Rập Xê Út | Ấn Độ | Bahrain | Bangladesh | Bhutan | Bờ Tây2 | Brunei | Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất | Campuchia | Dải Gaza2 | Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)4 | Đông Timor | Gruzia1 | Hàn Quốc | Hồng Kông3 | Indonesia | Iran | Iraq | Israel | Jordan | Kazakhstan1 | Kuwait | Kyrgyzstan | Lào | Liban | Ma Cao3 | Malaysia | Maldives | Mông Cổ | Myanma | Nepal | Nga1 | Nhật Bản | Oman | Pakistan | Palestin | Philippines | Qatar | Singapore | Síp1 | Sri Lanka | Syria | Tajikistan | Thái Lan | Thổ Nhĩ Kỳ1 | Triều Tiên | Trung Quốc | Turkmenistan | Uzbekistan | Việt Nam | Yemen

1. Thường gắn với châu Á về mặt địa lý, tuy nhiên cho là thuộc Châu Âu về mặt văn hóa và lịch sử. 2. Lãnh thổ do Israel kiểm soát, Chính quyền Palestin quản lý. 3. Khu tự trị đặc biệt của CHNDTH. 4. Xem thêm: Vị thế chính trị Đài Loan
Our "Network":

Project Gutenberg
https://gutenberg.classicistranieri.com

Encyclopaedia Britannica 1911
https://encyclopaediabritannica.classicistranieri.com

Librivox Audiobooks
https://librivox.classicistranieri.com

Linux Distributions
https://old.classicistranieri.com

Magnatune (MP3 Music)
https://magnatune.classicistranieri.com

Static Wikipedia (June 2008)
https://wikipedia.classicistranieri.com

Static Wikipedia (March 2008)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com/mar2008/

Static Wikipedia (2007)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com

Static Wikipedia (2006)
https://wikipedia2006.classicistranieri.com

Liber Liber
https://liberliber.classicistranieri.com

ZIM Files for Kiwix
https://zim.classicistranieri.com


Other Websites:

Bach - Goldberg Variations
https://www.goldbergvariations.org

Lazarillo de Tormes
https://www.lazarillodetormes.org

Madame Bovary
https://www.madamebovary.org

Il Fu Mattia Pascal
https://www.mattiapascal.it

The Voice in the Desert
https://www.thevoiceinthedesert.org

Confessione d'un amore fascista
https://www.amorefascista.it

Malinverno
https://www.malinverno.org

Debito formativo
https://www.debitoformativo.it

Adina Spire
https://www.adinaspire.com