Thanh Hóa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tỉnh Việt Nam |
|
Chính trị và hành chính | |
---|---|
Bí thư tỉnh ủy | Phạm Văn Tích |
Chủ tịch HĐND | Phạm Văn Tích |
Chủ tịch UBND | Nguyễn Văn Lợi |
Địa lý | |
Tỉnh lỵ | Thành phố Thanh Hóa |
Miền | Bắc Trung Bộ |
Diện tích | 11.106 km² |
Các thị xã / huyện | 24 huyện, 1 thành phố, 2 thị xã |
Nhân khẩu | |
Số dân • Mật độ |
3,52 triệu người 317 người/km² |
Dân tộc | Việt, Mường, Thái, Thổ, Dao, H'Mông, Khơ-mú |
Mã điện thoại | 37 |
ISO 3166-2 | VN-21 |
Địa chỉ Web | [1] |
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
- Thanh Hóa xưa là bộ Cửu Chân của nước Văn Lang.
- Thời nhà Tần: thuộc Tượng quận .
- Nhà Hán: Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân, bao gồm cả Nghệ An, Hà Tĩnh và một phần Ninh Bình ngày nay.
- Thời thuộc Tam quốc, nhà Đông Ngô tách quận Cửu Chân thành hai quận: Cửu Chân và Cửu Đức. Quận Cửu Chân gồm đất Thanh Hóa ngày nay và một phần phía nam Ninh Bình. Cửu Chân được chia làm 7 huyện: Tư Phố, Di Phong, Cư Phong, Trạn Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc, Thường Lạc, Tùng Nguyên.
- Thời nhà Lương: Lương Võ đế đổi Cửu Chân làm Ái Châu.
- Nhà Tùy gọi là Cửu Chân quận.
[sửa] Thời Đinh, Tiền Lê, Lý
- Nhà Đinh và Tiền Lê gọi là đạo Ái châu
- Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái châu, về sau vào nam Thuận thiên 1 thì họi là phủ Thanh hóa (Thanh: trong sáng; Hóa: biến hóa).
[sửa] Thời Trần, Hồ
Năm 1397, Trần Thuận Tông đổi làm trấn Thanh Đô, gồm 3 châu và 7 huyện: châu Thanh Hóa (gồm Nga lạc, Tế giang, Yên lạc, Lỗi giang); châu Ái (gồm: Hà trung, Thống bình, Tống giang, Chi nga);châu Cửu chân (gồm: Cổ chiến, Kết thuế, Duyên giác, Nông cống);huyện Cổ đằng; huyện Cổ hoằng; huyện Đông sơn; huyện Vĩnh ninh; huyện Yên định; huyện Lương giang; huyện Cổ lôi.
[sửa] Thuộc Minh
Nhà Minh đổi lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi dưng, Thụy nguyên. Về địa giới vẫn không đổi.
[sửa] Thời Lê, Nguyễn
- Nhà Lê, Thanh hóa là thừa tuyên Thanh hóa, gồm phần đất tỉnh Thanh hóa ngày nay + tỉnh Ninh bình ( thời kỳ đó là phủ Trường yên, trực thuộc ) + tỉnh Sầm nưa của Lào ( thời kỳ đó gọi là châu Sầm ).
- Năm 1802 (năm Gia Long 1 ), gọi là trấn Thanh hóa.
- Năm 1831 (năm Minh Mệnh 12 ), đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh hoa (từ hoa nghĩa là tinh hoa).
- Năm 1841 (năm Thiệu Trị 1 ), lại đổi thành tỉnh Thanh hóa.
Tên Thanh hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.
[sửa] Địa lý
[sửa] Vị trí địa lý
- Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm 1831 ( năm Minh Mệnh 10 ) thì tỉnh Thanh Hóa thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, múc cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân.
- Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hoá nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn nước Lào với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hoá mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km.
[sửa] Diện tích
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.106 km², đứng thứ 6 trong cả nước, chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².
[sửa] Địa hình
Nghiêng từ tây bắc xuống đông nam: phía tây bắc, những đồi núi cao trên 1.000 m đến 1.500 m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh; tạo tiềm năng lớn về kinh tế lâm nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong phú.
[sửa] Vùng miền núi, trung du
Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hoá. Riêng miền đồi trung du chiếm một diện tích hẹp và bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh Hoá thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần không tách rời của miền núi nói chung.
Miền đồi núi Thanh Hoá được chia làm 3 bộ phận khác nhau: bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lạc, Cẩm Thuỷ và Thạch Thành chiếm 2/3 diện tích của tỉnh. Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát, lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào, lại có tiềm năng thuỷ điện lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các nhà máy thuỷ điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp, đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc huyện Như Thanh), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú quý.
[sửa] Vùng đồng bằng
Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ ba của cả nước. Đồng bằng Thanh Hoá có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Điểm đồng bằng thấp nhất so với mực nước biển là 1 m.
[sửa] Vùng ven biển
Từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thuỷ sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn).
[sửa] Khí tượng, thuỷ văn
Nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có 3 mùa gió:
- Gió Bắc còn gọi là gió bấc: Không khí lạnh từ Bắc cực về, qua Trung Quốc thổi vào
- Gió Tây Nam: Từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi vào, gió rất nóng nên gọi là gió Lào hay gió Tây Nam.
- Gió Đông Nam hay gọi là gió nồm, thổi từ biển vào đem theo khí mát mẻ
- Mùa nóng: Bắt đầu từ cuối mùa xuân đến giữa mùa thu, mùa này nắng, mưa nhiều thường hay có lụt, bão, hạn hán, gặp những ngày có gió Lào nhiệt độ lên tới 39-40°C
- Mùa lạnh: Bắt đầu từ giữa mùa thu đến hết mùa xuân năm sau. Mùa này thường hay xuất hiện gió mùa đông bắc, lại mưa ít; đầu mùa thường hanh khô. Lượng nước trung bình hàng năm khoảng 1730-1980 mm, mưa nhiều tập trung vào thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, còn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau lượng mưa chỉ dưới 15%.
- Nhiệt độ không khí: Tổng tích ôn trung bình hàng năm khoảng 86000C, nhiệt độ trung bình từ 23,3 đến 23,6°C, mùa hè nhiệt độ có ngày cao tuyệt đối đến 40°C, nhưng mùa đông có ngày nhiệt độ xuống thấp tới 5-6°C.
- Độ ẩm không khí: trung bình 80-85%
- Nắng: hàng năm có khoảng 1700 giờ nắng, tháng nắng nhất là tháng 7, tháng có ít nắng là tháng 2 và tháng 3.
- Gió: Thành phố Thanh Hoá chỉ cách bờ biển Sầm Sơn 10 km đường chim bay, vì thế nó nằm vào tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, chính nhờ có gió biển mà những ngày có gió Lào, thời gian không khí bị hun nóng chỉ xảy ra từ 10 giờ sáng đến 12 giờ đêm là cùng.
- Bão: Theo chu kỳ từ 3-5 năm lại xuất hiện một lần từ cấp 9 đến cấp 10, cá biệt có năm cấp 11 đến cấp 12.
- Thuỷ văn: Hàng năm sông Mã đổ ra biển một khối lượng nước khá lớn khoảng 17 tỷ m³, ngoài ra vùng biển rộng còn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều, đẩy nước mặn vào, khối nước vùng cửa sông và đồng ruộng ven biển bị nhiễm mặn.
[sửa] Tài nguyên
Tỉnh Thanh hóa đa dạng nguồn tài nguyên, nhưng nhìn chung nguồn tài nguyên có trữ lượng không lớn, và thường phân bố không tập trung nên rất khó cho việc phát triển công nghiệp khai khoáng, trong tỉnh hiện tại mới chỉ có một số nhà máy đang tiến hành khai thác nguồn tài nguyên, như: nhà máy xi măng Bỉm sơn, xi măng Nghi sơn, phân bón Hàm rồng,...Đa số nguồn tài nguyên đang bị thất thoát do kiểm soát không chặt chẽ. Theo số liệu của sở tài nguyên và môi trường Thanh hóa đưa ra năm 2004 thì nguồn tài nguyên của tỉnh như sau:
- Đá vôi làm xi măng: trữ lượng 370 triệu tấn, chất lượng tốt, phân bố ở các huyện: Quan hóa, Cẩm thủy, Thạch thành, Bỉm sơn, Hà trung.
- Sét làm xi măng: Trữ lượng 85 triệu tấn, phân bố chủ yếu ở các huyện: Hà trung, Cẩm thủy, Thạch thành, Tĩnh gia.
- Sét làm gạch ngói: Trữ lượng trên 20 triệu khối, chất lượng tốt, phân bố chủ yếu ở các huyện: Thạch thành, Hà trung, Thiệu hóa, Yên định, Thọ xuân, Quảng xương, Tĩnh gia.
- Sét cao nhôm: Trữ lượng 5 triệu tấn, làm gạch chịu lửa và gạch ốp lát.
- Cát xây dựng: Trữ lượng rất lớn, phân bố khắp tỉnh.
- Đá ốp lát: Trữ lượng 2-3 tỉ khối, chất lượng tốt có nhiều màu sắc đẹp, độ bền cao.
- Đá bọt: Làm phụ gia xi măng
- Quặng sắt: Có 5 mỏ đã được thăm dò, trữ lượng 3 triệu tấn.
- Quặng Crom: Trữ lượng 21.898 triệu tấn (đặc biệt cả nước chỉ có ở Triệu sơn và Ngọc lặc của Thanh hóa).
- Vàng sa khoáng: Tập trung ở Cẩm thủy, Bá thước, Thường xuân.
- Vàng gốc: Tập trung chủ yếu ở làng Nèo huyện Bá thước
- Đá quý, bán quý: Tập trung ở tây nam tỉnh, chưa có điều kiện kiểm chứng, khảo sát.
- Phốt pho rit: Trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình.
- Secpentin: Trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt.
- Đô lô mit: Trữ lượng 4,7 triệu tấn, chất lượng rất tốt.
- Than đá: Trữ lượng không đáng kể.
- Than bùn: Trữ lượng 2 triệu tấn, là nguyên liệu chính để làm phân bón vi sinh.
- Nước mặt: Với các sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Hoạt, sông Bưởi, sông Bạng, sông Yên,...Tổng chiều dài là 881 km, với tổng diện tích lưu vực là 39.756 km². Tổng lượng nước ngọt trung bình hằng năm là 19,52 tỷ m³.
- Muối biển: Nước biển Thanh hóa có độ mặn cao từ 2,5-2,8 % vào các tháng từ 11 đến tháng 6 năm sau, cao nhất là vào tháng giêng từ 3,2-3,3 %.
[sửa] Các đơn vị hành chính
Thanh Hoá có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện:
- Thành phố Thanh Hóa
- Thị xã Bỉm Sơn
- Thị xã Sầm Sơn
- Huyện Bá Thước
- Huyện Cẩm Thủy
- Huyện Đông Sơn
- Huyện Hà Trung
- Huyện Hậu Lộc
- Huyện Hoằng Hóa
- Huyện Lang Chánh
- Huyện Mường Lát
- Huyện Nga Sơn
- Huyện Ngọc Lặc
- Huyện Như Thanh
- Huyện Như Xuân
- Huyện Nông Cống
- Huyện Quan Hóa
- Huyện Quan Sơn
- Huyện Quảng Xương
- Huyện Thạch Thành
- Huyện Thiệu Hóa
- Huyện Thọ Xuân
- Huyện Thường Xuân
- Huyện Tĩnh Gia
- Huyện Triệu Sơn
- Huyện Vĩnh Lộc
- Huyện Yên Định
[sửa] Dân cư
Theo thống kê năm 2005 Thanh Hóa có 3,52 triệu người, đứng thứ hai cả nước. Mật độ dân số vào loại trung bình: 317 người/km². Có 7 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Về tổ chức hành chính: gồm 24 huyện, 1 thành phố (Thanh Hóa), 2 thị xã; với 630 xã, phường, thị trấn (30 thị trấn, 18 phường), trong đó có 220 xã miền núi (105 xã vùng cao).
[sửa] Di tích lịch sử
- Thanh Hóa có cầu Hàm Rồng là một di tích lịch sử thời chiến tranh Việt Nam.
- Khu di tích lịch sử Lam Kinh: Thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 50 km về phía Tây. Hiện còn lưu giữ các điêu khắc đá như bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu Ngô Thị Ngọc dao, các di tích cung điện thành nội, thành ngoại, sân Rồng...
- Vườn quốc gia Bến En: Thuộc huyện Như Thanh cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía Tây Nam, rộng 16,634 ha với những cây lim ngàn tuổi, lát hoa, chò chỉ, ngù hương, săng lẻ... và nhiều loài thú như voi, gấu, hổ, khỉ...
- Suối cá "thần" Cẩm Lương: Thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ, cách thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây, là suối cá tự nhiên, có tới hàng ngàn con cá. Mỗi con cá nặng từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg.
- Cụm di tích Nga Sơn: động Bích Đào (hang Từ Thức)
- Thành Tây Ðô: thuộc địa phận 2 xã: Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 50 km.
- Văn hoá Đông Sơn
- Hệ thống khách sạn và nhà nghỉ: tỉnh Thanh Hoá có 178 cơ sở lưu trú với 3,469 phòng, 8,558 giường
- Thái miếu Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17, 18; Đặc biệt còn có 27 thần vị và nhiều hiện vật
- Đền thờ Lê Thành: thuộc xã Đông Cương, thờ một vị tướng có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Đền Chu Nguyên Lương: thuộc phường Nam Ngạn, thờ một vị tướng trong thời kỳ kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thời Trần.
- Phường Lam Sơn có đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ Tống Duy Tân... Thành phố Thanh Hoá cũng là trung tâm của hai tôn giáo lớn - Thiên chúa giáo và Phật giáo
- Phường Nam Ngạn và phường Trường Thi có toà Giám mục và chùa Thanh Hà, chùa Chanh và chùa Mật Đa.
- Rừng quốc gia Cúc Phương thuộc khu vực giao nhau với tỉnh Ninh Bình, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 70 km về phía Tây Bắc.
[sửa] Kinh tế
[sửa] Công nghiệp
- Khu công nghiệp Bỉm sơn
- Khu công nghiệp Nghi sơn
- Khu công nghiệp Lễ môn ( tp.Thanh hóa)
[sửa] Nông nghiệp
Toàn tỉnh hiện có 239.843 ha đất nông nghiệp đang được sử dụng khai thác.
- Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,408 triệu tấn
- Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn: nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha...
[sửa] Lâm nghiệp
[sửa] Ngư nghiệp
[sửa] Dịch vụ
[sửa] Liên kết ngoài
- Lịch sử văn hóa Thanh Hóa
- Trang web của chính quyền tỉnh Thanh Hoá
- Phát hiện hàng loạt động táng ở Thanh Hoá
Đơn vị hành chính cấp tỉnh thành nước CHXHCN Việt Nam | |||||||
|