Thiệu Trị
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiệu Trị | |
---|---|
Năm sinh-mất: | 1807–1847 |
Tên húy: | Nguyễn Phúc Miên Tông |
Trị vì: | 1841–1847 |
Triều đại: | Nhà Nguyễn |
Niên hiệu: | Thiệu Trị (1841-1847) |
Miếu hiệu: | Hiến Tổ |
Thụy hiệu: | Chương Hoàng Đế |
Vua Thiệu Trị (chữ Hán: 紹治;1807–1847) là vị vua thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847.
Vua Thiệu Trị tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền (阮福暶) và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu (bà Hồ Thị Hoa), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão, tức 16 tháng 6 1807, tại ấp Xuân Lộc, phía Đông kinh thành Huế.
Khi vua Minh Mạng băng hà, Nguyễn Phúc Miên Tông được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng giêng năm Tân Sửu tức 11 tháng 2 năm 1841.
Sử sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua Minh Mạng. Các định chế pháp luật, hành chánh, học hiệu, điền địa và binh bị đều áp dụng theo các định lệ của tiền triệu, không có sự cải cách, thay đổi gì mới.
Thiệu Trị cũng nổi tiếng là một ông vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Ðêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không trình bày theo lối thường mà viết thành năm vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một "trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai tìm ra được.
Dưới thời vua Thiệu Trị, đất Nam Kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn và quân Xiêm La sang đánh phá. Vua phải dùng binh đánh dẹp, tới năm Thiệu Trị thứ bảy 1847 mới yên được. Từ khi Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa bớt đi, nhưng triều đình vẫn không có cảm tình với Thiên chúa giáo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người báo tin đó báo cho trung tá Pháp là Favin Lévêque coi tàu Héroïne. Trung tá Favin Lévêqueông đem tàu vào Ðà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ năm 1845, có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Ðà Nẵng đón giám mục ra.
Năm Ất Tỵ 1847, khi người Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Ðà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
Khi hai bên còn đang thương nghị về việc này thì quan nước Pháp thấy thuyền của Việt Nam đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng có âm mưu bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ chạy biển. Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận, có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Những sự kiện này mở đầu "đường nối ngoại giao pháo hạm" của thực dân Pháp, báo hiệu trước những hành động xâm lược về sau này.
Một vài tháng sau Thiệu Trị lâm bệnh nặng. Con trai trưởng của ông là Nguyễn Phúc Hồng Bảo, một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành. Vì vậy khi gọi các quan Trương Ðăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào trăn trối, Thiệu Trị để di chiếu truyền ngôi cho con thứ là Hồng Nhậm. Hồng Bảo được tin đem binh vào, nhưng bị quan Phạm Thế Lịch giữ lại. Một mình Hồng Bảo vào lạy lục vua Thiệu Trị, nhưng vua quay mặt đi không trả lời. Hồng Bảo bị Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa vào hậu cung và giữ ở đó.
Thiệu Trị mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 10 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng đế. Lăng của vua Thiệu Trị là Xương Lăng, tại núi Thuận Đạo, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
[sửa] Con cái
Hoàng hậu của vua Thiệu Trị là Nghi Thiên Chương Thái hoàng thái hậu Từ Dũ, huý là Phạm Thị Hằng, con ngài Lễ bộ thương thư Phạm Đăng Hưng. Lăng của Thái hoàng thái hậu phía trái điện Xương Lăng, tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Thái hoàng thái hậu được tôn thờ tại Hữu Nhất Án tại Thái Miếu trong Đại nội kinh thành Huế.
Vua Thiệu Trị có 64 người con, gồm 29 hoàng tử và 35 công chúa.
Hoàng tử
|
|
[sửa] Liên kết ngoài
Trước: Minh Mạng |
Vua Nhà Nguyễn | Sau: Tự Đức |