Nghệ An
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tỉnh Việt Nam |
|
Chính trị và hành chính | |
---|---|
Bí thư tỉnh ủy | Nguyễn Thế Trung |
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Thế Trung |
Chủ tịch UBND | Phan Đình Trạc |
Địa lý | |
Tỉnh lỵ | Thành phố Vinh |
Miền | Bắc Trung Bộ |
Diện tích | 16.487 km² |
Các thị xã / huyện | 1 thị xã và 17 huyện |
Nhân khẩu | |
Số dân • Mật độ |
3.003.200 người 180 người/km² |
Dân tộc | Việt, Khơ-mú, Thái, Thổ, H'Mông |
Mã điện thoại | 38 |
ISO 3166-2 | VN-22 |
Địa chỉ Web | [1] |
Nghệ An là tỉnh lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía nam giáp Hà Tĩnh, phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh nằm cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam.
Mục lục |
[sửa] Hành chính
Nghệ An bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 17 huyện:
|
[sửa] Lịch sử
- Thời Hùng Vương và An Dương Vương, gọi bộ Hoài Hoan.
- Thời nhà Tần, thuộc Tượng Quận.
- Thời nhà Hán, là huyện Hoàn Hoan thuộc quận Cửu Chân.
- Thời nhà Ngô, tách ra khỏi quận Cửu Chân đặt làm quận Cửu Đức.
- Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu.
- Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An.
- Từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An.
- Thời Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn.
- Bản triều năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn
- Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam)
- Từ năm 1976-1991, Nghệ An và Hà Tĩnh là một tỉnh và được gọi là tỉnh Nghệ Tĩnh .
- Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay.
[sửa] Điều kiện tự nhiên
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm chịu ảnh hưởng của gió phơn tây nam khô và nóng. Mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt.
- Diện tích: 16.487 km²
- Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.670 mm
- Nhiệt độ trung bình: 25,2 °C
- Số giờ nắng trong năm: 1.420 giờ
- Độ ẩm tương đối trung bình: 86-87%
- Vĩ độ: 18°33′ đến 19°25′ vĩ bắc
- Kinh độ: 102°53′ đến 105°46′ kinh đông.
[sửa] Tài nguyên
Nghệ An có nguồn khoảng sản được đánh giá là đa dạng. Tuy nhiên hầu hết chưa được đánh giá đầy đủ và không có khả năng khai thác công nghiệp ngoại trừ một số như đá vôi, đá ốp lát, đá bazan, sắt, thiếc, than đá, than bùn...
- Đá vôi có trữ lượng lớn tập trung ở huyện Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Con Cuông. Riêng khu vực Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m³. Các vật liệu phụ gia khác cho sản xuất xi măng có trữ lượng lớn như sét xi măng ở Nghệ An có tới 40 triệu m³, phân bố nhiều nhất ở Quỳnh Thiện, Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Đô Lương. Đá bazan hàng trăm triệu tấn (trữ lượng dự báo toàn vùng 260 triệu m³). Ngoài ra còn có nhiều mỏ ở các vùng Đô Lương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp.
- Đá xây dựng có trữ lượng rất lớn. Đá có giá trị kinh tế cao là đá magma và gốc cácbonat phân bố nhiều ở vùng Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Con Cuông, Hưng Nguyên.
- Thiếc được đánh giá là lớn nhất Việt Nam, vùng thiếc sa khoáng có trữ lượng 42.000 tấn (chiếm 30% trữ lượng thiếc cả nước) đang được khai thác ở quy mô công nghiệp, khá tập trung ở vùng Quỳ Hợp và Quế Phong.
- Sét gạch ngói phân bố rộng ở vùng đồng bằng và trung du, là nguyên liệu lớn cho phát triển vật liệu xây dựng. Sét xi măng theo khảo sát ban đầu, để phục vụ cho nhà máy xi măng thì trữ lượng hiện tại đã có trên 40 triệu m³, phân bố ở Quỳnh Lưu và Đô Lương.
- Mangan được phát hiện ở Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc, Kẻ Li (Quỳ Châu). Trữ lượng đáng kể là mỏ Yên Cứ (Hưng Nguyên) 1,4 triệu tấn, mỏ Hoa Sen (Nam Đàn) có trữ lượng 111.000 tấn, mỏ Nam Lộc có trữ lượng 665.000 tấn, mỏ Khe Su có trữ lượng 501.000 tấn.
- Bô xít có tổng trữ lượng khoảng 3 triệu tấn. Bô xít có ở Sơn Thành (Yên Thành), Diễn Lâm (Diễn Châu), Nghĩa Lâm (Nghĩa Đàn), trong đó mỏ Sơn Thành có trữ lượng lớn nhất 257.000 tấn.
- Phốtphorít toàn tỉnh có trữ lượng dự báo khoảng 130.000 tấn, nhưng phân tán ở các huyện ở Thanh Chương, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh Sơn và Con Cuông.
- Titani có ở Cửa Hội và Nghi Thọ tồn tại dưới dạng inmenít (TiO2). Tổng trữ lượng 22.600 tấn trong đó Cửa Hội 20.500 tấn.
- Vàng trữ lượng được đánh giá khoảng 20 tấn, chủ yếu là vàng sa khoáng ở dọc sông Cả, sông Hiếu. Mỏ vàng gốc Tà Sỏi với trữ lượng dự báo 8 tấn.
- Đá quý tập trung ở Quỳ Hợp, Quỳ Châu... chủ yếu là rubi. Đây là nguồn lợi lớn cho phát triển công nghiệp khai thác và chế tác đá quý, tuy nhiên cho đến nay việc thăm dò-khảo sát chưa được đánh giá đúng mức.
- Nước khoáng có nhiều mỏ dễ khai thác. Mỏ Bản Khạng (Quỳ Hợp) thuộc loại khoáng cacbonic là loại được ưa chuộng, có trữ lượng 0,5 lít/giây. Các mỏ Bản Hợp, Bản Bo, Bản Lang (Quỳ Hợp), Cồn Soi (Nghĩa Đàn), Vĩnh Giang (Đô Lương) đều có thể khai thác sử dụng ngay.
- Than đá: tập trung ở Khe Bố (Tương Dương), Đồn Phục (Con Cuông).
- Than bùn: Tập trung ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn...
[sửa] Dân số
Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2004 Nghệ An có 3.003.200 người, trong đó có 1.474.600 là nam giới.
[sửa] Thành phần dân số
[sửa] Kinh tế
[sửa] Nông nghiệp
[sửa] Công nghiệp
- Các ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh: xi măng, bia, đường...
- Các doanh nghiệp lớn: Công ty Xi măng Hoàng Mai, Công ty Cổ phần Bia Nghệ An (Vida), Công ty Mía đường TL.
[sửa] Du lịch
Nghệ An được biết đến với nhiều danh lam thắng cảnh như khu nghỉ mát bãi tắm Cửa Lò, khu di tích Hồ Chí Minh, khu di tích đền Cuông...
[sửa] Văn hóa, xã hội
[sửa] Liên kết ngoài
Đơn vị hành chính cấp tỉnh thành nước CHXHCN Việt Nam | |||||||
|