Vương quốc Phổ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phổ (phát âm: Latin: Borussia, Prutenia; tiếng Lithuania: Prūsija; tiếng Ba Lan: Prusy; tiếng Phổ cổ: Prūsa) từng là một nước trong lịch sử cận đại ở Brandenburg, một khu vực trong nhiều thế kỉ qua đã ảnh hưởng lớn đến nước Đức và lịch sử châu Âu. Thủ đô cuối cùng của Phổ là Berlin.
;Tên gọi Phổ bắt nguồn từ người Phổ cổ (tiếng Anh: Old Prussians), một dân tộc người Balt có liên quan đến người Litvia và người Latvia; Phổ sau này bị chinh phục bởi những hiệp sỹ của Dòng Đức (tiếng Đức: Deutscher Orden, tiếng Anh: Teutonic Knights) và sau đó từ từ bị Đức hóa.
Phổ đạt đến tầm phát triển quan trọng nhất trong thế kỉ 18 và thế kỷ 19. Trong suốt thế kỉ thứ 18, Phổ vươn lên vị trí hùng mạnh thứ ba châu Âu dưới triều đại của vua Friedrich II của Phổ (1740–1786). Trong suốt thế kỉ 19, Thủ tướng Otto von Bismarck đã theo đuổi Giải pháp Đức Nhỏ để thống nhất các quốc gia Đức nhưng loại trừ Đế chế Áo.
Vương quốc Phổ thống trị miền bắc nước Đức về mặt chính trị, kinh tế, và dân số, và là phần chính của Liên minh Bắc Đức thống nhất thành lập vào năm 1867, trở thành Đế chế Đức (Deutsches Reich) vào năm 1871.
Với sự kết thúc của triều đại Hohenzollern ở Đức theo sau Thế chiến thứ nhất, Phổ trở thành một phần của Cộng hòa Weimar vào năm 1919.
Kể từ đó, từ "Phổ" đã được điển hình hóa và sử dụng trong lịch sử, địa lý, hoặc văn hóa. Thậm chí ngày nay, đã có một kiểu đạo đức được gọi là "các giá trị Phổ", chẳng hạn: tổ chức hoàn hảo, sự hy sinh, tổ chức luật pháp, tuân theo nhà nước và quân đội, nhưng cũng dựa vào được, tiết kiệm, khiêm tốn, và cần mẫn. Rất nhiều người Phổ tin rằng những giá trị đó là một phần nguyên nhân của sự lớn mạnh của đất nước họ.
Mục lục |
[sửa] Biểu trưng
Màu trắng và đen của quốc gia Phổ bắt nguồn từ các hiệp sỹ Dòng Đức mặc áo choàng trắng thêu một thánh giá màu đen. Tổ hợp của những màu sắc này với màu trắng và đỏ của Liên hiệp Hanse (trong đó có các thành phố tự do Bremen, Hamburg và Lübeck) tạo thành cờ đen-trắng-đỏ của Liên bang Bắc Đức, rồi trở thành cờ của Đế chế Đức vào năm 1871.
Kể từ thời Cải cách Kháng Cách trở đi, khẩu hiệu của Phổ là Suum cuique (tiếng Anh: to each, his own, tiếng Đức: Jedem das Seine). Thêm nữa, đó là khẩu hiệu của Huân chương Đại bàng Đen, tạo ra bởi Vua Friedrich I của Phổ (xem thêm Thập tự sắt).
[sửa] Địa lý và dân số
Phổ bắt đầy từ một lãnh địa nhỏ mà sau này được gọi là Tây và Đông Phổ, mà bây giờ là Warmia-Masuria phía bắc Poland, vùng tách ra Kaliningrad Oblast của Nga, và vùng Klaipėda của Lithuania. Vùng này được sinh số đa số bởi người Prussian cổ đại và sau này bị trở thành thuộc địa của người Đức, cũng như là người Ba Lan và người Lithuanians dọc theo các khu vực biên giới.
Trước khi bị bãi bỏ, lãnh địa Phổ bao gồm "Prussia proper" (Tây Phổ và Đông Phổ), Pomerania, đa số Silesia, Brandenburg, Lusatia, và Sachsen (bây giờ là bang Sachsen-Anhalt ở Đức), Hannover, Schleswig-Holstein, Westphalen, Hessen-Nassau, Rheinland, và một số khu vực nhỏ tách rời ở phía nam như là phần của Thụy Sỹ và Hohenzollern, quê nhà nhiều đời của gia đình đã cai trị Phổ. Tuy nhiên, có một số vùng phía bắc nước Đức không bao giờ trở thành một phần của Prussia, như là Oldenburg, Mecklenburg, và các thành phố-quốc gia của Hiệp hội Hanse.
Mặc dù Phổ đa phần là một quốc gia Đức theo Tin Lành nhưng một phần lớn người dân ở Rheinland lại theo Công Giáo La Mã, trong khi một số lớn các quận ở Posen, Silesia, Tây Phổ, và các miền Warmia thuộc Đông Phổ có đa số dân số là Công Giáo. Một số quận Công Giáo phía đông này có dân số Đức (như là Warmia và Glatz), trong khi đa số có dân sốc có nguồn gốc Ba Lan. Vùng phía nam của Đông Prussia là Masuria đa số là người Masur được Đức hóa và theo Kháng Cách. Điều này giải thích tại sao có các bang Công Giáo ở phía nam nước Đức, đặc biệt là là Áo và Bayern, chống lại quyền lãnh đạo Phổ trong một thời gian dài.
Mặc dù đa phần mang tính chất Đức, việc sát nhập của vùng đất Ba Lan vào Phổ trong các lần Chia cắt Ba Lan đem lại một dân số Ba Lan khá lớn chống lại chính quyền Đức và trong một vài khu vực người Ba Lan chiếm đa số dân số (v.d. Tỉnh Posen: 62% Ba Lan, 38% Đức). Theo kết quả của Hòa ước Versailles vào năm 1919, Cộng hòa Ba Lan đệ nhị nhận một phần lớn hơn của các khu vực này, một số vùng có một số lượng lớn dân Đức thiểu số.
Vào tháng 5 năm 1939 Phổ có diện tích 297,007 km² và dân số là 41,915,040 người.
[sửa] Lịch sử thời xưa
Vào năm 1226 Công tước Konrad I của Masovia mời các hiệp sỹ của Dòng tu Đức, một dòng tu quân đội Đức thuộc các hiệp sỹ của cuộc Thập tự chinh đóng ở Acre, đi chinh phạt các bộ lạc Phổ vùng nằm trên biên giới xứ ông. Tuy nhiên, trong suốt sáu mươi năm đánh với người Phổ cổ, họ đã tạo ra một quốc gia độc lập mà sau đó điều khiển Phổ cộng với phần lớn các khu vực mà bây giờ là Estonia, Latvia, tây Lithuania, và phía bắc Ba Lan. Các hiệp sỹ chỉ đứng dưới quyền của Giáo hoàng và hoàng đế của Đế chế La mã Thần thánh.
Tuy vậy, những người hiệp sỹ này cuối cùng bị một liên minh giữa Ba Lan và Lithuania đánh bại, buộc phải chấp nhận quyền tự chủ của quốc vương Ba Lan là Casimir IV Jagiellon trong Hòa ước Thorn vào năm 1466, mất đi phía tây của Phổ (Royal Prussia) về Ba Lan qua hòa ước này. Vào năm 1525 Đại Giáo Chủ Dòng Đức Albert của Brandenburg trở thành một người Kháng Cách và phân chia các lãnh thổ Phổ còn lại vào Công quốc Phổ, quốc gia Kháng Cách chính thức đầu tiên.
Vùng đất của công tước vào thời gian này chỉ giới hạn trong một khu vực phía đông của cửa sông Vistula, gần với biên giới ngày nay giữa Ba Lan và vùng trước năm 1945 của Nga là phần tách ra của Kaliningrad (trước là Königsberg).
Đông Phổ và Brandenburg được thống nhất hai thế hệ sau đó. Anna, con gái của Công tước Albrecht Friedrich (tại vị 1568-1618), thành hôn với Phò mã John Sigismund của xứ Brandenburg, một bang của Đức có trung tâm là Berlin và được cai trị từ thế kỉ thứ 15 bởi dòng họ Hohenzollern. Vào lúc Albrecht Friedrich qua đời vào năm 1618, Johann Sigismund được trao quyền thừa kế vùng đất Ba Lan được phong tặng cho Công tước Phổ. Từ thời gian này Phổ dưới quyền trị vì của Phò mã xứ Brandenburg. Sự tiếp nhận vùng đất của công tước là một điều thuận lợi cho triều đình Hohenzollern, bởi vì nó nằm bên ngoài biên giới của Đế chế La mã Thần thánh. Quốc gia mới tạo thành được biết đến như là Brandenburg-Phổ. Dòng họ Hohenzollern cũng thu được các vùng đất của Công tước Cleves và lãnh địa bá tước trong vùng Rheinland.
Trong suốt cuộc Chiến tranh ba mươi năm, những vùng đất Hohenzollern không nối kết với nhau đã bị nhiều đoàn quân viễn chinh khác nhau xâm chiếm, đặc biệt là quân của Thụy Điển. Bá tước George William (1619-1640) với quân đội yếu kém và không hiệu quả chạy trốn khỏi Berlin sang Königsberg vào năm 1637. Người kế vị ông ta, Friedrich Wilhelm I (1640-1688), bắt đầu tuyển mộ lính đánh thuê để bảo vệ những vùng đất rải rác của Brandenburg-Prussia.
Friedrich Wilhelm sang Warsaw vào năm 1641 để tỏ lòng quy phục Vua Ba Lan là Władysław IV Vasa của lãnh địa Phổ, mà ông nắm quyền như là một vùng đất phong tặng từ triều đình Ba Lan. Lợi dụng vị trí đối đầu khó khăn giữa Ba Lan và Thụy Điển trong Các cuộc chiến tranh Bắc Âu, và những mối quan hệ thân thiện của ông với Nga trong một loạt các trận chiến Nga-Ba Lan, Friedrich Wilhelm sau này xoay sở để thoát khỏi nghĩa vụ như là một chư hầu của vua Ba Lan; ông cuối cùng được trao quyền tự chủ Phổ độc lập trong Hòa ước Wehlau vào năm 1657. Tuy nhiên, những quyền của vương triều Ba Lan vẫn sẽ quay lại nếu như dòng họ đế vương Hohenzollern không còn tồn tại nữa.
Để biết thêm về lịch sử của Phổ xem Nguồn gốc Phổ, Quốc gia tôn giáo của Dòng Đức, Phổ của các công tước, Brandenburg-Phổ, và Hoàng gia Phổ.
[sửa] Vương quốc Phổ
Vào năm 1701 con trai của Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu Friedrich III tự xưng là Vua Friedrich I của Phổ, và tất cả các liên hệ với Vương quốc Ba Lan được gỡ bỏ. Bởi vì ông không muốn xúc phạm đến Hoàng đế Leopold I, Friedrich chỉ được phép tự xưng là "Vua trong Prussia", chứ không phải "Vua của Prussia". Vị vua Phổ đầu tiên cũng là người cầm quyền Phổ cuối cùng có thể nói trôi chảy tiếng Ba Lan, trong khi những người kế vị của ông nói thông thạo tiếng Pháp và ngôn ngữ bản xứ tiếng Đức. Tuy nhiên, các vua Hohenzollern dưới thời Hoàng đế William II của Đế chế Đức có thể nói một ít tiếng Ba Lan, bởi vì nhiều người Lutheran, được Đức hóa một phần ở Masuria vẫn nói tiếng Ba Lan.
Prussia phát triển rực rỡ dưới thời trị vì của Frederick I, người bảo trợ nghệ thuật bằng chi phí của ngân khố quốc gia. Ông được kế vị bởi người con trai, Frederick William I (1713-1740) vị "Vua - Người lính" khắc khổ, người không quan tâm đến nghệ thuật nhưng tằn tiện và thực tế. Ông được cho là người tạo ra hệ thống hành chính được ca ngợi của Prussia và quân đội thường trực, mà ông đã phát triển thành một trong những đạo quân hùng mạnh nhất ở châu Âu, mặc dù quân lính của ông chỉ xung trận trong một thời gian ngắn trong Chiến tranh lớn phía bắc. Theo cách nhìn về kích cỡ của quân đội so với tổng dân số Voltaire sau này đã nói: "Prussia không phải là một nước với quân đội nhưng là một quân đội với một nước!"
Thêm vào đó, Frederick William cho định cư trên 20,000 người tị nạn Kháng Cách từ vùng Salzburg vào vùng thưa dân ở phía đông Prussia và các miền khác. Từ Thụy Điển ông đoạt được Tây Pomerania xa cho đến tận Peene vào năm 1720.
Con trai của ông Frederick II, sau này thường gọi là "Frederick Đại đế", kế vị Frederick William vào năm 1740. Khi là Thái tử ông đam mê triết học và nghệ thuật; tuy nhiên, trong nằm đầu tiên trên ngôi vua ông ra lệnh cho quân đội Prussia tiến đánh Silesia, vùng mà Hohenzollern tranh chấp. Trong ba cuộc chiến tranh Silesia (1740-1763) ông thành công trong cuộc chinh phạt này chống lại Áo. Trong cuộc chiến cuối cùng, Chiến tranh bảy năm, ông phải chống lại một liên minh của Áo, Pháp, và Nga.
Đây là buổi ban đầu để Prussian vươn lên thành một quốc gia hùng mạnh ở châu Âu, và sự căng thẳng giữa Prussia và Áo như là hai quốc gia hùng mạnh nhất trong Đế chế La mã Thần thánh. Vào năm 1744 Quận Đông Frisia rơi vào tay Prussia sau khi triều đình Cirksene không còn người kế vị.
Trong 23 năm cuối cùng của triều đại cho đến 1786, Frederick II, người tự hiểu ra rằng như là "người đầy tớ đầu tiên của quốc gia", khuyến khích việc phát triển và định cư thêm ở các khu vục, chẳng hạn như là Oderbruch. Cùng lúc đó ông xây dựng quân lực Prussia và tham dự vào Sự phân chia Ba Lan lần thứ 1 với Austria và Nga (1772) nối kết Brandenburg với phần đông Prussia, ông cũng mở biên giới Prussia để cho phép dân nhập cư trốn khỏi những đàn áp về tôn giáo ở các phần khác của châu Âu, như là Huguenots. Prussia trở thành một nơi an toàn như là Hoa Kỳ đón chào dân nhập cư đi tìm tự do trong thế kỉ 19.
Frederick Đại đế, vị "Vua của Prussia" đầu tiên, thực hành chủ nghĩa khai sáng tuyệt đối. Ông giới thiệu bộ luật dân sự phổ thông, xóa bỏ việc tra tấn, và thiết lập nguyên tắc Hoàng gia không can thiệp với những vấn đề về công lý. Ông cũng phát triển thêm một hệ thống giáo dục "trung học" nâng cao, tiền thân của hệ thống các trường Gymnasium (Grammar School) ngày nay ở Đức, chuẩn bị cho những học sinh giỏi nhất các giáo dục ở bậc đại học.
[sửa] Chiến tranh với Napoléon
Trong suốt triều đại của Vua Frederick William II (1786-1797), Prussia sát nhập thêm một phần của Ba Lan qua các cuộc Phân chia của Ba Lan sau đó. Prussia đóng vai trò chủ đạo trong Chiến tran Cách mạng Pháp, nhưng giữ im lặng trong hơn một thập kỉ theo sau kết quả của Hòa ước Basel vào năm 1795, chỉ tham chiến một lần nữa với Pháp vào năm 1806 khi việc thương lượng về ảnh hưởng của Đức với Pháp thất bại. Trong Trận đánh Jena-Auerstedt, Prussia chịu thất bại nặng nề khi đánh với quân của Napoleon Bonaparte và Vua Frederick William III (1797-1840) và gia đình buộc phải chạy sang Memel tạm thời lánh nạn. Vào năm 1807 bởi Hiệp ước Tilsit, vương quốc mất đi khoảng một nửa diện tích, đặc biệt là các khu vực có được từ lần Phân chia của Ba Lan thứ hai và thứ ba, mà bây giờ trở thành lãnh địa của Công tước xứ Warsaw. Hơn thế nữa, nhà vua bị buộc phải liên minh với Pháp và tham gia vào Hệ thống Lục địa.
In response to this defeat, reformers such as Stein and Hardenberg set about modernizing the Prussian state, including the liberation of peasants from serfdom, the emancipation of Jews and making full citizens of them, and the institution of self-administration in municipalities. The school system was rearranged and in 1810 free trade was introduced. The process of army reform ended in 1813 with the introduction of compulsory military service.
After the defeat of Napoleon in Russia, Prussia quit the alliance and took part in the Sixth Coalition during the "Wars of Liberation" (Befreiungskriege) against the French occupation. Prussian troops under Marshal Gebhard Leberecht von Blücher contributed crucially in the Battle of Waterloo of 1815 to the final victory over Napoleon. Prussia's reward in 1815 at the Congress of Vienna was the recovery of her lost territories, as well as the whole of the Rhineland, Westphalia, and some other territories. These western lands were to be of vital importance because they included the Ruhr Area, the centre of Germany's fledgling industrialisation, especially in the arms industry. These territorial gains also meant the doubling of Prussia's population. In exchange, Prussia withdrew from areas of central Poland to allow the creation of Congress Poland under Russian sovereignty. Prussia emerged from the Napoleonic Wars as the dominant power in Germany, overshadowing her long-time rival Austria, which had given up the imperial crown in 1806.
The first half of the 19th century saw a prolonged struggle in Germany between the forces of Liberalism, which wanted a united, federal Germany under a democratic constitution, and the forces of Conservatism, which wanted to maintain Germany as a patchwork collection of independent, weak monarchical states, with Prussia and Austria competing for influence. Prussia benefited greatly from the creation in 1834 of the German Customs Union (Zollverein) which excluded Austria.
In 1848 the Liberals got their chance when revolutions broke out across Europe. An alarmed King Frederick William IV agreed to convene a National Assembly and grant a constitution. When the Frankfurt Parliament offered Frederick William the crown of a united Germany he refused on the grounds that revolutionary assemblies could not grant royal titles.
Prussia obtained a semi-democratic "Constitution of the Kingdom of Prussia", but the grip of the landowning classes, the Junkers, remained unbroken, especially in the eastern provinces.
[sửa] Những cuộc chiến để thống nhất
In 1862 King William I appointed Otto von Bismarck as Prime Minister of Prussia. Bismarck was determined to defeat both the Liberals and the Conservatives by creating a strong united Germany but under the domination of the Prussian ruling class and bureaucracy, not the western German Liberals. As he realized that the Prussian crown could only win the support of the people if she herself took the lead in the fight for the German unification, Bismarck guided Prussia through three wars which together brought William the position of German Emperor.
[sửa] Chiến tranh Schleswig
The Kingdom of Denmark was at the time in personal union with the Duchies of Schleswig and Holstein, both of which had close ties with each other. Only Holstein belonged to the German Confederation, however. The nationalistic attempt by the Danish government in Copenhagen to integrate Schleswig, but not Holstein, into the Danish state led to the First War of Schleswig (1848-1851), in which Prussia led the German Confederation against Denmark. Although the Danes were defeated militarily, Prussia was pressured by the Great Powers into returning Schleswig and Holstein to Denmark, in return for Denmark's assurances that it would not try to integrate Schleswig. Prussia was also embarrassed by conceding to Austria predominance in the German Confederation in the Punctation of Olmütz in 1850, due to Russian support for Austria.
In 1863 Denmark annexed Schleswig, leading to the Second War of Schleswig in 1864 between Denmark and the German Confederation, led by Prussia and Austria. The confederate German forces crushed the Danes, and in the resulting Gastein Convention of 1865 Prussia took over the administration of Schleswig while Austria administered Holstein.
[sửa] Chiến tranh Áo-Phổ
Bismarck realized that the dual administration of Schleswig and Holstein was only a temporary solution, and tensions escalated between Prussia and Austria. If the deeper cause of the ensuing Austro-Prussian War (1866) was the struggle for supremacy in Germany, the actual trigger was the dispute over Schleswig and Holstein.
On the side of Austria stood the central and southern German states; on the side of Prussia, beside some northern German states, there was also Italy. When Prussian troops, equipped with superior arms, achieved the crucial victory at Königgrätz under Helmuth von Moltke the Elder, Austria lost her fight for supremacy and left the German Confederation. Because Bismarck desired to have Austria as an ally in the future, he declined to annex any territory from the Austrian Empire. The Peace of Prague in 1866 brought to Prussia land from Austria's allies, including the Kingdom of Hanover, Hesse-Kassel, the Duchy of Nassau, the free city of Frankfurt, and all of Schleswig-Holstein, thus connecting nearly all Prussian territories. The German Confederation was dissolved after the war in 1866 and replaced the following year with the North German Confederation.
At the beginning only a military alliance, the contracting parties to the North German Confederation adopted a constitution which made Prussia the dominant state of the federation. The new constitution, drafted by Bismarck, presaged many substantial points of the Constitution of the German Reich. The King and Prime Minister of Prussia, respectively, were simultaneously President and Chancellor of the North German Confederation.
As a result of the peace negotiations, the states in the South of Germany remained theoretically independent, but received the (compulsory) protection of Prussia. Additionally, mutual defensive alliances were signed, the "Schutz- und Trutzbündnisse" (see also "Das Lied der Deutschen" in which these terms are also used). However, the existence of these treaties was kept secret until Bismarck made them public in 1867, when France tried to acquire Luxemburg.
[sửa] Chiến tranh Pháp-Phổ
The controversy with the Second French Empire over the candidacy of a Hohenzollern to the Spanish throne was escalated both by France and Bismarck, who, with his Ems Dispatch, took advantage of an incident in which the French ambassador had approached William. The government of Napoleon III, expecting another civil war among the German states, declared war against Prussia, continuing Franco-German enmity once more in a hostile manner. Honoring their treaties, the German states joined forces and quickly defeated France in the Franco-Prussian War in 1870. Following victory under Bismarck's and Prussia's leadership, Baden, Württemberg, Bavaria, Mecklenburg, and Saxony accepted incorporation into a united German Empire.
Austria, which remained connected to Hungary, did not join, thus the Kleindeutsche Lösung, a federated German Empire without Austria, was enacted. On 18 January 1871 (the 170th anniversary of the coronation of King Frederick I), William was proclaimed "German Emperor" (not "Emperor of Germany") in the Hall of Mirrors at Versailles outside of Paris, while the French capital was still under siege.
[sửa] Đế chế Đức
The two decades following the unification of Germany were the peak of Prussia's fortunes. Had the state continued to be blessed with wise leaders after Bismarck, Prussia's economic power and political status might have made her peacefully the centre of European civilization.
Emperor Frederick III may have been such a man, but he was already terminally ill when he became Emperor for 99 days in 1888. He was married to Victoria, the first daughter of Queen Victoria of the United Kingdom, but their first son William suffered physical and possibly mental damage during birth.
At the age of 29, William became Emperor William II after a difficult youth and conflicts with his British mother. He turned out to be a man of limited experience, narrow and reactionary views, poor judgement, and occasional bad temper which alienated former friends and allies. Despite or perhaps due to being a close relative of the British and Russian royal families, William became their rival and ultimately their enemy.
After dismissing Bismarck, the forger of alliances, in 1890, William embarked on a program of militarisation and adventurism in foreign policy that eventually led Germany into isolation. A misjudgment of the conflict with Serbia by the Emperor, who left for holiday, and hasty mobilisation plans of several nations led to the disaster of World War I (1914-1918). As the price of their withdrawal from the war, the Bolsheviks conceded large regions of the western Russian Empire, some of which bordered Prussia, to German control in the Treaty of Brest-Litovsk (1918). German control of these territories only lasted for a few months, however, because of the defeat of German military forces and the German Revolution.
[sửa] Quốc gia Phổ Tự do trong khuôn khổ Cộng hòa Weimar
Due to the German Revolution of 1918, William II abdicated as German Emperor and King of Prussia. The state was proclaimed an independent "Free State" (German: Freistaat, or Republic) within the new Weimar Republic and in 1920 received a democratic constitution.
Germany's territorial losses were specified in the Treaty of Versailles: Eupen and Malmedy to Belgium; North Schleswig to Denmark; the Memel Territory to Lithuania; the Hultschin area to Czechoslovakia. Large parts of the areas which Prussia had annexed in the Partitions of Poland, such as the Provinces of Posen and West Prussia, as well as eastern Upper Silesia, went to the Second Polish Republic. Danzig became the Free City of Danzig under the administration of the League of Nations.
Before the Partitions of Poland, and now again due to its lost territory, there was no connection by land between East Prussia and the rest of the country; and the former could now only be reached by ship ("shipping service East Prussia") or by a railway through the Polish corridor. Also, the Saargebiet was predominantly formed from formerly Prussian territories.
The idea of breaking up Prussia into smaller states was considered by the German government, but eventually traditionalist sentiment prevailed and Prussia became the "Prussian Free State" (Freistaat Preußen, sometimes also called Free State of Prussia), by far the largest state of the Weimar Republic - comprising 60% of its territory. Since it included the industrial Ruhr Area and "Red Berlin", it became a stronghold of the left, being governed by a coalition of the Social Democrats and the Catholic Centre for most of the 1920s.
From 1919 to 1932 coalitions of the Social Democrats, Catholic Centre, and German Democrats governed in Prussia; from 1921 to 1925 coalition governments included the German People's Party. Unlike in other states of the German Reich, majority rule by democratic parties in Prussia was never endangered. Nevertheless in East Prussia and industrial areas, the National Socialist German Workers Party of Adolf Hitler gained more and more influence and much popular support, especially from the lower middle class and lower class labourers. Except for Roman Catholic Prussian Upper Silesia, the NSDAP in 1932 became the largest party in most parts of the Free State of Prussia. However, the democratic parties remained a majority coalition together, while communists and fascists were in the opposition.
The East Prussian Otto Braun, who was Prussian Minister-President almost continuously from 1920 to 1932, is considered one of the most capable Social Democrats in history. He implemented several trend-setting reforms together with his Minister of the Interior, Carl Severing, which were also models for the later Federal Republic of Germany. For instance, he created the "constructive vote of no confidence" which only allows for the sacking of the Prime Minister if a successor is selected at the same time. In this way the government of the Prussian state could remain as long as no new "positive majority" formed which was powerful enough to challenge the government. Most historians regard the Prussian government during this time as far more successful than that of Germany as a whole.
A pillar of democracy in the Weimar Republic, Prussia was not destroyed by the voters but because of the Preußenschlag ("Prussian coup") of Reich Chancellor Franz von Papen. In this coup d'etat, the Government of the Reich unseated the Prussian government on 20 July 1932, under the pretext that the latter had lost control of public order in Prussia (the Bloody Sunday of Altona, Hamburg). The majority of the state apparatus welcomed Papen when, as "Commissioner of the Reich", he took power in the Free State of Prussia. Thereby the most important democratic government in the Reich was now without power. The Preußenschlag made it easier, only half a year later, for Adolf Hitler to take power decisively in Germany, having now, as he did, the whole apparatus of the Prussian government, including the police, at his disposal.
[sửa] Nước Phổ chấm dứt
After the appointment of Hitler as the new Chancellor, the Nazis used the opportunity of absence of Franz von Papen to appoint Hermann Göring federal commissioner for the Prussian Minister of the Interior. The Reichstag election of March 5 1933 strengthened the position of the National Socialist Party, although they did not achieve an absolute majority.
Because the Reichstag building had been set on fire a few weeks earlier, the new Reichstag was opened in the Garrison Church of Potsdam on March 21 1933 in the presence of President Paul von Hindenburg. In a propaganda-filled meeting between Hitler and the NSDAP, the "marriage of old Prussia with young Germany" was celebrated, to win over the Prussian monarchists, conservatives, and nationalists and induce them to vote for the Enabling Act.
In the centralized state created by the Nazis in the "Law on the Reconstruction of the Reich ("Gesetz über den Neuaufbau des Reiches", 30 January 1934) and the "Law on Reich Governors" ("Reichsstatthaltergesetz", 30 January 1935) the States were dissolved, in fact if not in law. The federal state governments were now controlled by governors for the Reich who were appointed by the Chancellor. Parallel to that, the organization of the party into districts (Gau) gained increasing importance, as official in charge of a Gau (the infamous Gauleiter) was again appointed by the Chancellor who was at the same time chief of the NSDAP.
In Prussia this anti-federalistic policy continued even further. From 1934 almost all ministries were merged together and only a few departments were able to maintain their independence. Hitler himself became formally the Governor of Prussia. His functions were exercised, however, by Hermann Göring, as Prussian Prime Minister.
As provided for in the "Greater Hamburg Law" ("Groß-Hamburg-Gesetz"), certain exchanges of territory took place. Prussia was extended on 1 April 1937, for instance, by the incorporation of the Free and Hanseatic City of Lübeck.
The Prussian lands transferred to Poland after the Treaty of Versailles were reannexed during World War II. However, most of this territory was not reintegrated back into Prussia but assigned to separate Gaue of the Großdeutsches Reich.
With the end of National Socialist rule in 1945 came the division of Germany into Zones of Occupation, and the transfer of control of everything east of the Oder-Neisse line, (including Silesia, Farther Pomerania, Eastern Brandenburg, and southern East Prussia), to Poland (with the northern third of East Prussia, including Königsberg, now Kaliningrad, going to the Soviet Union). Today the Kaliningrad Oblast is a Russian exclave between Lithuania and Poland. An estimated ten million Germans fled or were expelled from these territories as part of the German exodus from Eastern Europe.
In Law #46 of 25 February 1947 the Allied Control Council formally proclaimed the dissolution of the remains of the Prussian state. In the Soviet Zone of Occupation, which became East Germany in 1949, the former Prussian territories were reorganised into the states of Brandenburg and Saxony-Anhalt, with the remaining parts of the Province of Pomerania going to Mecklenburg-Western Pomerania. These states were abolished in 1952 in favor of districts, but were recreated after the fall of communism in 1990.
In the Western Zones of occupation, which became West Germany in 1949, they were divided up among North Rhine-Westphalia, Lower Saxony, Hesse, Rhineland-Palatinate, and Schleswig-Holstein. Württemberg-Baden and Württemberg-Hohenzollern were later merged with Baden to create the State of Baden-Württemberg.
Since the dissolution of the Soviet Union, a small number of ethnic Germans from Kazakhstan have begun to settle in the Kaliningrad exclave of the Russian Federation, once northern East Prussia, as part of the migration influx into the area, which was previously a restricted area (closed city). As of 2005, about 6,000 (0.6% of population) ethnic Germans, mostly from other parts of Russia, live there.
After the German reunification in 1990 a plan was developed to merge the States of Berlin and Brandenburg. Though some suggested calling the proposed new state "Prussia," the name that was eventually chosen for the state was "Berlin-Brandenburg". However this proposed merger was rejected in 1996 by popular vote, with the poor fiscal situation of Berlin being a large factor.
[sửa] Xem thêm
- Origins of Prussia
- Prussian people
- Old Prussian language
- Brandenburg-Prussia
- Kingdom of Prussia
- Unification of Germany
- German Empire
- Provinces of Prussia
- List of rulers of Brandenburg and Prussia
[sửa] Liên kết ngoài
- Preussen.de
- East and West Prussia Gazetteer
- 1570 map of Germany and Prussia plus details
- Map of Pomerania and Prussia 1598
- 1660 map of Prussia 1660
- map of Prussian Provinces
- Partial Map of Prussia by Gerard Mercator, Atlas sive cosmographica., Amsterdam 1594
- Partial Map of Prussia by Kasper Henneberger, Koenigsberg 1629
- Map of Old Prussia by K. Henneberger, 17th c.
- Map of Prussia by K. Henneberger in: Christoph Hartknoch, Alt- und neues Preussen..., Frankfurt 1684
- Map of Prussia and Freie Stadt Danzig from 18th c.
- Map of East Prussia K. Flemming, F. Handtke, Głogów ca. 1920, after Treaty of Versailles removed Memel area from Germany.
- Prussian Army
- Prussian language discussion forum
- Kingdom of Prussia: Constitutional charter for the "Prussian State" ("Revised Constitution" of 31th January 1850, in full text)
- Constitutional charter for the "Prussian State" ["Imposed Constitution of 5th December 1848, in full text)
- Picture archive Stiftung Preußischer Kulturbesitz