Đế quốc Ottoman
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|||||
Khẩu hiệu | دولت ابد مدت Devlet-i Ebed-müddet ("Đất nước vĩnh cửu") |
||||
Lãnh thổ đế quốc thời cực thịnh (1683) |
|||||
Ngôn ngữ | tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman | ||||
Thủ đô | Söğüt (1299-1326), Bursa (1326-1365), Edirne (1365-1453), Constantinople (nay là Istanbul) (1453-1922) |
||||
Quốc ca | Đế quốc ca Ottoman | ||||
Chính quyền | Padishah thuộc triều đại Osmanli | ||||
Dân số | khoảng 40 triệu | ||||
Diện tích | 6,3 triệu km² (1902); tối đa 19,9 triệu km²(ước năm 1595) |
||||
Thành lập | 1299 | ||||
Kết thúc | 1 tháng 11, 1922 | ||||
Đơn vị tiền tệ | Akçe, Kuruş, Lira Thổ |
Đế quốc Ottoman (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: دولتِ عَليه عُثمانيه Devlet-i Âliye-i Osmâniyye; dịch nghĩa, "Quốc gia Ottoman Vĩ đại", tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại: Osmanlı İmparatorluğu), cũng thỉnh thoảng được gọi là Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, đã tồn tại từ năm 1299 đến 1923. Thời đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ 16 và thế kỷ 17, các lãnh thổ của nó gồm Anatolia, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam Châu Âu đến tận Kavkaz. Nó chiếm một vùng khoảng 5,6 triệu km²[1], dù nó kiểm soát một vùng rộng hơn nhiều, nếu các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, nơi quyền bá chủ của đế chế này được công nhận, được cộng gộp vào. Đế chế này tương tác với cả văn hoá phương Đông và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
[sửa] Khởi thủy
Các tổ tiên của triều đại Ottoman là một phần của các bộ lạc người Turk miền tây đã di cư từ Trung Á bắt đầu từ thế kỷ 10. Định cư tại Ba Tư trong thời kỳ này, những người Turk bắt đầu mở rộng về phía tây tới Armenia và Anatolia vào đầu thế kỷ 11. Những đợt di chuyển này đã đưa họ vào mâu thuẫn với đế quốc Byzantin, khi đó đã từng là một quyền lực chính trị nổi trội tại khu vực miền đông Địa Trung Hải kể từ thời kỳ La Mã, nhưng vào thế kỷ 11 đã bắt đầu một thời kỳ suy thoái dài. Người Turk Seljuk đã thiết lập địa vị chắc chắn tại Anatolia sau chiến thắng lịch sử tại trận Manzikert năm 1071, để tạo ra Hồi quốc Anatolia Seljuk. Tiếp theo sự xâm lăng của người Mông Cổ tới Anatolia trong thế kỷ 13, hồi quốc này đã sụp đổ và lãnh thổ của nó đã bị phân chia thành nhiều tiểu công quốc nhỏ của người Thổ Nhĩ Kỳ, được gọi là các Beylik.
Dưới quyền bá chủ của Hồi quốc Anatolia Seljuk, bộ lạc Kayı của người Turk Oğuz đã tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành Ottoman Beylik tại miền tây Anatolia. Thủ lĩnh của người Kayı là Ertuğrul đã nhận được vùng đất này sau lưng Seljuk trong cuộc va chạm biên giới nhỏ. Hệ thống Seljuk tạo cơ hội cho sự bảo vệ Beylik từ bên ngoài, và cũng cho phép nó phát triển cấu trúc nội tại của nó. Vị trí của Kayı trên ven rìa phía viễn tây của nhà nước Seljuk cho phép họ xây dựng lực lượng quân sự của mình thông qua sự hợp tác với các dân tộc khác sống tại miền tây Anatolia, nhiều trong số đó là những người theo Kitô giáo. Sau sự tan rã của Hồi quốc, Kayı trở thành chư hầu của Hãn quốc Il thuộc người Mông Cổ.
Tên gọi Ottoman có nguồn gốc từ Osman I (tiếng Ả Rập: Uthman), con trai của Ertuğrul, người đã trở thành Bey đầu tiên khi ông tuyên bố độc lập của nhà nước Ottoman năm 1299. Trong khi các Beylik khác của người Thổ Nhĩ Kỳ còn phải bận tâm với các mâu thuẫn nội bộ, Osman đã có thể mở rộng biên giới của khu định cư Ottoman về phía rìa của đế quốc Byzantin. Ông đã chuyển thủ đô của Ottoman tới Bursa, và định hình sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc. Người ta gọi ông với tên hiệu "Kara" vì sự can đảm của ông, Osman I đã được ca ngợi như là một vị vua hùng mạnh và năng động một thời gian rất dài sau khi ông mất, như được thể hiện trong thành ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ "Ông/anh ta có thể tuyệt vời như Osman". Danh tiếng của ông cũng được đánh bóng trong câu chuyện thời Trung cổ của người Thổ Nhĩ Kỳ, được biết dưới tên gọi "Giấc mơ của Osman", một sự thành lập huyền thoại trong đó chàng trai trẻ Osman là người có đầy năng lực để chinh phục một đế quốc nhìn thấy trước.
Thời kỳ này là sự hình thành của chính quyền Ottoman chính thức mà các cơ quan, tổ chức cấu thành ra nó gần như không thay đổi lớn gì trong gần 4 thế kỷ. Ngược lại với nhiều nhà nước cùng thời kỳ đó, hệ thống quan lại của đế quốc Ottoman đã cố gắng tránh sự cai trị theo kiểu quân sự. Chính quyền cũng tạo ra một thể chế pháp lý gọi là millet (kiểu lãnh thổ tự trị), mà trong đó thiểu số từ các dân tộc ít người và tôn giáo có khả năng quản lý công việc của chính họ với một sự độc lập đáng kể từ sự kiểm soát của trung ương.
Trong thế kỷ sau cái chết của Osman I, sự thống trị của Ottoman đã bắt đầu mở rộng tren toàn khu vực miền đông Địa Trung Hải và Balkan. Sau thất bại trong trận Plocnik, thì chiến thắng của người Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Kosovo đã đánh dấu sự kết thúc quyền lực của người Serb tại khu vực này, và mở đường cho sự bành trướng của Ottoman vào châu Âu. Người Ottoman đã phải cần khoảng 100 năm để đánh bại Serbia. Serbia cuối cùng đã sụp đổ năm 1459. Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ Nhĩ Kỳ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào Constantinople đã trở thành mục tiêu quyết định. Thành phố này cuối cùng đã bị chiếm giữ trong thời kỳ trị vì của Mehmed II, người trở thành sultan lần đầu tiên khi mới 12 tuổi. Mehmed II đã tái cấu trúc của cả nhà nước lẫn quân đội, và đã thể hiện các kỹ năng quân sự của mình trong việc chiếm đóng Constantinople (xem: Istanbul (từ nguyên)) vào ngày 29 tháng 5 năm 1453. Sự kiện này đánh dấu thất bại cuối cùng và sự sụp đổ của đế quốc Byzantin cũng như thành phố này trở thành thủ đô mới của đế quốc Ottoman.
[sửa] Cực thịnh
Vào thời cực thịnh, đế quốc Ottoman đã trải dài toàn bộ đông-nam châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung Hải. Trong thế kỷ 17, đế quốc Ottoman có khoảng 25 triệu dân – một con số khổng lồ vào thời đó, gần bằng gấp đôi bất cứ nước nào ở châu Âu ngoại trừ Pháp. Gần 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của đế quốc Ottoman: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bulgaria, Romania, Nam Tư (sau này phân làm 5 nước độc lập), Hungary, Albania, Syria, Liban, Jordan, Israel, Aden, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algérie, Kypros, Armenia, Gruzia và một phần nước Nga.
Đế quốc Ottoman cực thịnh trong thế kỷ 16 dưới triều đại của hoàng đế Suleiman I (1520-1566). Quân đội Ottoman đã tiến đến Belgrad của Nam Tư cũ và Wien (Áo bây giờ), để lại những nhà nguyện Hồi giáo rải rác khắp các sườn đồi và thung lũng vùng Balkan. Nổi giận vì những biểu hiện cho việc chiếm đóng của người đạo Hồi này, các vương quốc theo đạo Cơ đốc ở Tây Âu xem người Thổ Nhĩ Kỳ là kẻ xâm lược Hy Lạp và các sắc dân theo Cơ đốc giáo khác. Nhưng đế quốc Ottoman rộng lượng hơn, chấp nhận tôn giáo khác với đạo Hồi. Hoàng đế chính thức công nhận Giáo hội Hy Lạp và giáo khu của giáo chủ và các tổng giám mục, cho phép các giáo đường Chính thống giáo được duy trì tài sản của họ. Người Thổ Nhĩ Kỳ thích cai trị qua định chế chính trị địa phương, và để đổi lại cho tiền triều cống, các tỉnh Cơ đốc giáo được phép duy trì các hệ thống hành chính, thứ bậc và giai cấp.
Trong thế kỷ 16 và 17, đế quốc Ottoman là một trong những thực thể chính trị mạnh nhất thế giới, các nước mạnh ở Đông Âu luôn bị đe dọa bởi sự mở rộng thường xuyên của nó qua Balkan và phần phía nam của Liên bang Ba Lan-Litva. Hải quân của nó cũng là một lực lượng rất mạnh ở Địa Trung Hải. Nhiều lần, quân đội Ottoman đã tấn công Trung Âu, bao vây Vienna năm 1529 và một lần nữa năm 1683 trong nỗ lực chinh phục lãnh địa của Habsburg, và cuối cùng chỉ bị đẩy lui bởi một liên minh to lớn của các nước mạnh tại châu Âu trên cả trên bộ và trên biển. Nó là quyền lực duy nhất không thuộc châu Âu đã thách thức được sự nổi lên về quyền lực của phương Tây trong khoảng giữa thế kỷ 15 và thế kỷ 20, tới mức nó đã trở thành một phần trong tổng thể của chính trị cân bằng quyền lực châu Âu, vì thế làm giảm bớt sự khác biệt giữa hai bên.
[sửa] Suy vong
Đầu thế kỷ 17, các tể tướng góp công cứu nguy cho đế quốc trong khi hoàng đế vui hưởng trong hậu cung. Bên ngoài, quyền lực của Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu thuyền của người Venezia và Cozak thường xuyên quấy phá. Đế quốc được cứu nguy do tài năng của một đại gia đình tể tướng gồm cha, con trai và em rể.
Năm 1656, khi đế quốc gần bị sụp đổ, hậu cung đành phải cử một người Albania 71 tuổi, Memmed Korpulu, làm tể tướng. Ông này ra lệnh xử tử 50.000-60.000 người để bài trừ tham nhũng. Năm năm sau, lúc ông qua đời, tình hình có phần ổn định. Dưới quyền tể tướng con trai của ông, Ahmed Korpulu, và sau đó em rể ông, Kara Mustapha, uy quyền của Ottoman được hồi phục. Các hạm đội và quân của Áo, Venezia và Ba Lan bị đẩy lui. Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống hoàng đế Leopold, tể tướng Kara Mustapha phái 200.000 quân ngược dòng sông Danub, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu đánh bại. Hoàng đế ra lệnh thắt cổ tể tướng Kara Mustapha.
Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman bị đại bại do sức tiến công từ Wien. Quân Venezia công hãm Athena, nhưng không may là trong đợt pháo kích của họ, một quả đạn rơi trúng ngôi đền Parthenon được xây vào thế kỷ 5 TCN, lúc ấy được quân Ottoman dùng làm kho chứa thuốc súng. Ngày 26 tháng 9 năm 1687, ngôi đền lúc ấy còn khá nguyên vẹn bị nổ tung, để lại tình trạng cho đến bây giờ.
[sửa] Cáo chung
Ngày 1 tháng 11 năm 1922, đế quốc Ottoman chính thức cáo chung. Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập vào năm sau, dựa trên một phần lãnh thổ của đế quốc Ottoman.
Sự tan rã của đế chế này là hậu quả trực tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi các nước mạnh thuộc Đồng Minh đánh bại Các nước Trung tâm ở châu Âu cũng như các lực lượng Ottoman tại Mặt trận Trung Đông. Ở thời điểm kết thúc chiến tranh, chính quyền nhà nước Ottoman sụp đổ và đế quốc bị các nước thắng trận chinh phục và phân chia. Những năm sau đó các nước mới từ đế quốc Ottoman đã tuyên bố thành lập, vùng đất trung tâm của đế quốc trở thành Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Các thành viên của gia đình Osmanlı cai trị sau đó đã bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào khoảng năm 1923-1924. Năm 1974, sau 50 năm, Nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ đã trao quyền tái yêu cầu quyền công dân Thổ Nhĩ Kỳ cho những con cháu của dòng họ này, và họ đều đã thực hiện điều đó trong những thập kỷ tiếp sau trong một quá trình đã hoàn thành với việc người đứng đầu dòng họ Ertuğrul Osman V đã được trao quyền công dân năm 2004.
[sửa] Quá trình các lãnh thổ thuộc đế quốc Ottoman
[sửa] Xã hội chính trị
Dân cư sinh sống trên lãnh thổ Ottoman chủ yếu theo đạo Hồi, và sắc tộc chính là người Thổ Ottoman, kế tiếp là người Ả Rập, người Kurd, người Tatar Crimea, người Bosnia, người Albania v.v. Hoàng đế cũng trị vì hàng triệu dân theo Cơ đốc giáo: người Hy Lạp, người Serb, người Hungari, người Bulgar...
Vì thế mà sợi dây chính trị nối kết các sắc tộc và tôn giáo khác nhau cần thiết phải linh động và lỏng lẻo. Hoàng đế trị vì từ thủ đô Constantinople (nay là Thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng bộ máy hành chính địa phương nằm trong tay các tiểu vương, hoàng thân, hãn vương..., có địa phương được tự trị mọi việc ngoại trừ cái tên. Các hoàng thân Cơ đốc giáo vùng Balkan được hoàng đế chọn, nhưng một khi đã lên nắm quyền, lòng trung thành của họ chỉ thể hiện qua việc nộp triều cống. Mỗi năm, từng đoàn xe goòng tải đến Constantinople vàng và những loại tiền thuế. Hãn vương người Tatar của Crimea cai trị từ thủ phủ Bakhchisarai như là vị lãnh chúa độc tôn, chỉ có nhiệm vụ cung ứng 20.000-30.000 kỵ binh mỗi khi hoàng đế có chiến tranh. Về phía tây cách gần 2.000 kílômét, các vùng Tripoli, Tunis và Algérie chỉ thực hành nghĩa vụ chiến tranh bằng cách điều tàu chiến (bình thường làm giàu nhờ nghề hải tặc cướp bóc tất cả các nước) đi đánh các cường quốc hải quân theo Cơ đốc giáo như Venezia và Genova.
Xuyên suốt lịch sử của họ, đế quốc Ottoman luôn ở trong tình trạng chiến tranh. Khi hoàng đế có tính khí mạnh mẽ và thông minh, đế quốc cường thịnh lên. Khi ông yếu đuối, đế quốc bị suy yếu. Điều dễ nhận thấy là cuộc đời trong cấm thành, chung quanh là phụ nữ đầy sinh lực nồng nàn và thái giám đầy mưu đồ, dễ làm cho hoàng đế bị suy nhược. Một tình huống thứ hai trong lịch sử của đế quốc cũng khiến cho hoàng đế trở thành con người kém cỏi. Điều oái oăm là việc này bắt đầu bằng hành động nhân từ. Cho đến thế kỷ 16, truyền thống ở Ottoman là Thái tử khi lên ngôi kế vị sẽ ra lệnh thắt cổ tất cả anh em trai còn lại, để triệt hạ mọi âm mưu soán ngôi. Hoàng đế Mehmed III thắt cổ tất cả 19 em trai và, để tận diệt mọi mầm mống phản loạn, hạ sát luôn bảy bà vương phi của vua cha lúc đó đang mang thai. Tuy nhiên, đến năm 1603, hoàng đế mới Ahmed I chấm dứt truyền thống khủng khiếp này khi không muốn giết người em nào. Thay vào đó, ông cách ly họ trong một khu riêng biệt, nơi họ không liên lạc được gì với thế giới bên ngoài.
Từ lúc này trở đi, mọi hoàng tử Ottoman đều sống mỏi mòn trong khu biệt lập, bên cạnh chỉ có thái giám và cung phi đã quá tuổi sinh nở để ngăn ngừa họ có hậu duệ hòng làm phản. Nếu có một bé trai ra đời do sơ suất, đứa bé này không được phép làm rối loạn thứ tự truyền ngôi, nên phải bị xử tử. Vì thế, khi một hoàng đế qua đời hoặc bị truất phế mà không có con trai kế vị, một hoàng tử sống trong khu biệt lập có thể được triệu đến để được tấn phong. Trong số các hoàng tử ngu dốt và thụ động này, hiếm khi triều đình tìm được người có đủ sự phát triển trí tuệ hoặc kiến thức về chính trị để trị vì đế quốc.
Trong mọi lúc, và đặc biệt khi hoàng đế thiếu năng lực, tể tướng là người thực sự điều hành đế chế, quản lý mọi sự vụ hành chính và quân sự – tất cả sự vụ, ngoại trừ cấm thành. Trên lý thuyết, tể tướng là bầy tôi của hoàng đế, nhận chức vụ qua biểu tượng là một chiếc nhẫn khắc đế hiệu được chính tay hoàng đế ban tặng, và bị cách chức khi hoàng đế thu hồi nhẫn này. Tuy nhiên, trên thực tế tể tướng cai trị cả đế quốc. Trong thời bình, ông nắm quyền cao nhất về hành pháp và tư pháp. Trong thời chiến, ông còn là tổng tư lệnh quân đội, kế dưới ông là tư lệnh vệ binh và tư lệnh hải quân.
Dinh tể tướng có quyền lực rộng lớn – có khi đủ mạnh để mưu đồ lật đổ hoàng đế – nhưng cũng có nhiều rủi ro và ít khi hứa hẹn một cái chết êm thấm. Khi thất trận, tể tướng bị quy trách nhiệm và tiếp theo đó là bị cách chức, đi đày hoặc không hiếm khi bị thắt cổ. Giữa các năm 1682-1702, có mười hai tể tướng đến và đi.
[sửa] Chú thích
- ▲ Regnal Chronologies. "To Rule the Earth...". Retrieved 6 April 2006.