Nhà Trần
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Lịch sử Việt Nam |
||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
- Bài này nói về nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, để tham khảo về nhà Trần trong lịch sử Trung Quốc, xin xem Nhà Trần (Trung Quốc). Về các nghĩa khác của chữ Trần, xem Trần (định hướng).
Nhà Trần là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175 năm.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
Một số tài liệu nói rằng tổ tiên họ Trần là người đất Mân Việt (Phúc Kiến, Trung Quốc), sang lập nghiệp ở miền duyên hải nước Đại Việt, nay thuộc tỉnh Nam Định. Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Lý nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng (7 tuổi) nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (6 tuổi) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu. Trong khoảng 175 năm trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên thành công vào các năm 1258, 1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể từ đời vua Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự mục nát và yếu kém của hệ thống quan lại. Cuối cùng vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, chấm dứt 175 năm trị vì của dòng họ này.
Xem thêm bài Trần Thủ Độ.
[sửa] Nguồn gốc tên
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là Lý (nghĩa là cá chép). Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh (vua Thái Tông). Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.
[sửa] Kháng chiến chống Nguyên Mông
[sửa] Lần thứ nhất 1258
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế bao vây Nam Tống.
Tháng 8 năm Đinh Tỵ 1257, chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất sai người báo tin có sứ Mông Cổ sang. Tháng 9, Trần Thái Tông xuống chiếu lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn. Tháng 11, vua lệnh truyền cả nước sắm sửa vũ khí.
Tháng 12, ngày 12, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台) mang quân tiến vào xâm phạm Bình Lệ Nguyên thuộc nước Đại Việt. Vua Thái Tông thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Quân Trần hơi núng, vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có Lê Tần (tức Lê Phụ Trần) một mình một ngựa xông pha bình thản như không. Có người khuyên vua dừng lại để chỉ huy chiến đấu. Tần cố sức can rằng: "Nay thì bệ hạ chỉ đánh một ván dốc túi thôi! Hãy nên tạm lánh chúng, sao lại có thể dễ dàng tin lời người ta thế!"
Vua Thái Tông mới lui quân đóng ở sông Lô. Lê Tần giữ phía sau. Quân Mông Cổ bắn loạn xạ, Tần lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng tên giặc. Thế giặc rất mạnh, quân Trần lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Lê Tần theo vua bàn những việc cơ mật, rất ít người biết được đều đó.
Vua đến hỏi ý thái sư Trần Thủ Độ về việc đánh địch, Thủ Độ trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác."
Ngày 24 tháng chạp (đầu năm 1258 dương lịch), vua Thái Tông và thái tử Thuyên (Trần Thánh Tông sau này) ngự lâu thuyền, tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đón đánh, cả phá được quân giặc. Quân Mông Cổ thua chạy chạy trốn về, đến trại Quy Hóa, chủ trại là Hà Bổng chiêu tập người địa phương (sử gọi là người Man) ra tập kích, lại cả phá được quân Mông một trận nữa.
Quân Mông Cổ bỏ chạy dọc đường không hề cướp bóc của dân, nên người ta gọi là "giặc Phật". Giặc rút, vua Thái Tông ban cho Hà Bổng tước hầu. Lê Tần có công phò vua lúc nguy cấp nên được ban cho tên là Lê Phụ Trần và được gả hoàng hậu cũ là Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng).
[sửa] Lần thứ hai 1285
Tháng 11 năm nhâm Ngọ, (1282), hữu thừa tướng nhà Nguyên là Toa Đô (Sogatu) đem 5000 quân đi đường thủy từ Quảng Châu đánh Chiêm Thành, định từ đó đánh thốc lên Đại Việt từ phía nam.
Tháng 10, vua Trần Nhân Tông ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá, họp vương hầu và trăm quan, bàn kế công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu. Thánh Tông lấy Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư làm phó đô tướng quân, thái úy Trần Quang Khải làm thượng tướng thái sư. Khi ấy, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn khích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Quốc Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân" (tức là "phá giặc mạnh, báo ơn vua") và tham gia đánh trận, lập đựoc nhiều công.
Tháng 7 năm Quý Mùi (1283), vua Trần sai trung phẩm Hoàng Ư Lệnh, nội thư gia Nguyễn Chương sang Nguyên, gặp thái tử A Thai??, bình chương A Lạt (hay A Lý Hải Nha tức Ariq-Qaya), ở Hồ Quảng, hội 50 vạn quân ở các xứ định sang năm vào đánh Đại Việt.
Tháng 10 năm 1283, vua Nhân Tông thân hành dẫn các vương hầu điều quân thủy bộ tập trận. Tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị.
Tháng 8 năm Giáp Thân (1284), Hưng Đạo Vương điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia các quân đóng giữ Bình Than và những nơi xung yếu khác. Tháng 11, Thánh Tông sai Trần Phủ sang hành tỉnh Kinh Hồ (nước Nguyên) xin hoãn binh.
Tháng 12, Trần Phủ từ Nguyên trở về, tâu rằng vua Nguyên sai bọn Trấn Nam Vương Thoát Hoan (Toghan), bình chương A Lạt đem quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường vào cướp. Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão điều nói "đánh!"
Ngày 26, quân Nguyên đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng. Quân Trần đánh địch không nổi, lui về đóng ở bến Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm, chọn những người dũng cảm làm tiền phong, vượt biển vào Nam, thế quân lên dần. Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hung Đạo Vương để chống quân Nguyên. Hưng Đạo Vương chia quân đón giữ ở Bắc Giang.
Ngày mồng 6 tháng giêng năm 1285, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại, quân Trần thua trận. Ngày 12, quân Nguyên đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn, bắt được quân Đại Việt, thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát" bằng mực vào cánh tay, tức lắm, giết hại rất nhiều. Quân Nguyên đến Đông Bộ Đầu. Ngày 13, quân Trần lại giao tranh với quân Nguyên. Ngày 28, Hưng Đạo Vương bàn xin Trần Quang Khải chặn đánh cánh quân của Toa Đô ở Nghệ An.
Mồng 1 tháng 2, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện và liêu thuộc là Lê Trắc đem theo quân đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên Kinh. Thổ hào Lạng Giang là Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh, tập kích quân Nguyên ở trại Ma Lục. Gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết Kiện. Trắc đưa xác Kiện lên ngựa, trốn đi đêm, chạy được vài chục dặm, tới Khâu Ôn chôn Kiện tại đó. Thượng hoàng Thánh Tông sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy.
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng[1] đánh nhau với quân Nguyên ở bãi Đà Mạc (nay là bãi Mạn Trù) bị bắt. Quân Nguyên hỏi ông: "Có muốn làm vương đất Bắc không?" Ông thét to: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất bắc", rồi bị giết.
Thế quân Nguyên rất mạnh, hai vua phải đi thuyền nhỏ đến Tam Trĩ Nguyên, sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn để đánh lừa giặc.
Ngày mồng 1 tháng 3, hai vua Thánh Tông và Nhân Tông bỏ thuyền đi bộ đến Thuỷ Chú. Lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức huyện Thuỷ Đường) vượt biển Đại Bàng (cửa Văn Úc ngày nay) vào Thanh Hóa. Thượng vị Văn Chiêu hầu Trần Lộng đầu hàng Thoát Hoan. Kế đó, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia thuộc đầu hàng quân Nguyên. Nguyên soái Toa Đô đem quân đến Chiêm Thành, hội với quân Nguyên ở châu Ô Lý (Quảng Trị ngày nay) rồi cướp châu Hoan, châu Ái (Thanh Hóa - Nghệ An), tiến đóng ở Tây Kết (khoảng thôn Đông Kết, xã Đông Bình, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay).
Tháng 4, vua Nhân Tông sai Chiêu Thành Vương, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết. Quan quân giao chiến với quân Nguyên ở Hàm Tử Quan (nay là xã Hàm Tử huyện Văn Giang, Hưng Yên). Các quân đều hội đủ.
Ngày mồng 3 tháng 5, hai vua Trần đánh bại quân Nguyên ở phủ Trường Yên. Ngày mồng 7, Toa Đô từ Thanh Hoá tới. Ngày mồng 10, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân Nguyên tan vỡ, rút chạy qua sông Lô. Ngày 17, Toa Đô và Ô Mã Nhi lại từ biển đánh vào sông Thiên Mạc, muốn hội quân ở kinh sư, để chi viện cho nhau. Du binh Nguyên đến huyện Phù Ninh, viên phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc cùng em là Hà Chương đã lập mưu đánh bại được.
Ngày 20, hai vua Trần tiến đóng ở Đại Mang Bộ. Tổng quản quân Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Hôm đó, quân Đại Việt đánh bại quân Nguyên ở Tây Kết, giết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu Toa Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua đuổi theo nhưng không kịp, bắt được hơn 5 vạn quân Nguyên đem về, Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền vượt biển trốn thoát.
Hưng Đạo Vương lại đánh bại quân Thoát Hoan và Lý Hằng ở Vạn Kiếp, quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Lý Hằng đem quân hộ vệ Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Quân Đại Việt lấy tên tẩm thuốc độc bắn trúng đầu gối bên trái của Hằng, Hằng chết. Tỳ tướng Lý Quán thu nhặt 5 vạn quân còn lại, giấu Thoát Hoan vào một ống đồng, chạy trốn về bắc. Đến Tư Minh, Hưng Vũ Vương đuổi kịp, dùng tên tẩm thuốc độc bắn trúng Lý Quán, Quán chết. Quân Nguyên tan vỡ.
Tháng 6, ngày mồng 6, hai vua Trần trở về kinh sư, thượng tướng Trần Quang Khải làm thơ rằng:
|
|
[sửa] Lần thứ ba 1287-1288
Tháng 3 năm [1286]] vua Nguyên sắc phong cho thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích, bình chương sự Ô Mã Nhi, đại tướng Trương Văn Hổ điều 50 vạn quân, hạ lệnh Hồ Quảng đóng 300 chiếc thuyền biển, hẹn tháng 8 hội cả ở Khâm Châu, Liêm Châu. Lại ra lệnh quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây xâm lược phương nam, mượn cớ đưa Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương.
Tháng 6, lệnh cho vương hầu, tôn thất mộ binh, thống lĩnh thuộc hạ của mình. Vua hỏi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: "Thế giặc năm nay thế nào?" Quốc Tuấn trả lời: "Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn."
Tháng 2 năm 1287, nhà Nguyên phát quân Mông Cổ, quân Hán Nam, 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, lính Vân Nam, lính người Lê ở 4 châu ngoài biển, chia đường vào cướp. Sai vạn hộ Trương Văn Hổ đi đường biển, chở 70 vạn thạch lương theo sau. Lại đặt chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh do bình chương sự Áo Lỗ Xích (Auruyvci), các tham tri chính sự Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thống lĩnh và chịu tiết chế của Trấn Nam Vương.
Vua Nhân Tông hỏi Hưng Đạo Vương: "Giặc tới, liệu tình hình thế nào?" Ông trả lời: "Năm nay đánh giặc nhàn"
Ngày 24, lệnh cho cấm quân giữ ải Lãnh Kinh. Hưng Đức hầu Quán đem quân đón đánh, dùng tên tẩm thuốc độc bắn giặc chết và bị thương rất nhiều. Quân Nguyên lui về đóng ở ải Vũ Cao. Ngày 28, phán thủ thượng vị Nhân Đức hầu Toàn đem thuỷ quân đánh ở vụng Đa Mỗ, quân Nguyên chết đuối rất nhiều, bắt sống 40 tên và thu được thuyền ngựa, khí giới đem dâng.
Ngày 16 tháng 12, vua Nhân Tông chiếu sai minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa đến chỗ Hưng Đạo Vương để giữ cửa Đại Than. Ngày 26, quân Đại Việt giao chiến đánh bại quân Nguyên. Ngày 30, Thoát Hoan cùng Ô Mã Nhi hợp 30 vạn quân đánh vào Vạn Kiếp rối thuận dòng xuôi về phía đông. Thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Khánh Dư thất bại, thượng hoàng Thánh Tông được tin, sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư xin khất hai, ba ngày, để mưu lập công. Khánh Dư liệu biết thủy quân Nguyên đã qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu thập tàn binh đợi. Chẳng bao lâu thuyền vận tải của Trương Văn Hổ quả nhiên đến, Khánh Dư phục binh đánh tan, bắt được quân lương khí giới, tù binh rất nhiều. Thượng hoàng Thánh Tông được tin bèn tha cho tội trước. Vua Trần tha những tên bị bắt về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quân Nguyên sau này phải rút lui rất nhanh.
Tháng giêng năm 1288, Ô Mã Nhi đánh vào phủ Long Hưng. Ngày 8, quân Trần hội chiến ngoài biển Đại Bàng, bắt được 300 chiếc thuyền địch, 10 thủ cấp, quân Nguyên bị chết đuối rất nhiều.
Ngày 29 tháng 2, Ô Mã Nhi đánh vào trại Yên Hưng. Ngày 8 tháng 3, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ nhưng không gặp bị Hưng Đạo Vương đánh bại. Trước đó, ông đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng, phủ cỏ lên trên. Hôm ấy, nhân lúc nước triều lên, ông cho quân khiêu chiến rối giả cách thua chạy, quân Nguyên đuổi theo. Nước triều xuống, thuyền vướng cọc hết. Nguyễn Khoái chỉ huy quân Thánh dực dũng nghĩa đánh nhau với quân Nguyên, bắt sống Bình chương Áo Lỗ Xích. Hai vua Trần đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu. Đến khi Văn Hổ quay trở lại, quân Trần mai phục hai bên bờ hăng hái xông ra, lại đánh bại Hổ lần nữa. Nước triều rút nhanh, thuyền lương của Văn Hổ mắc trên cọc, nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Quân Trần bắt được 400 chiếc thuyền. Nội ninh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lê Cơ Ngọc. Thoát Hoan và A Thai dẫn quân trốn về Tư Minh. Ngày 17, đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Nguyên soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, Nguyên soái Điền, các vạn hộ, thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.
Khi vua cử lễ bái yết, có làm thơ rằng:
|
|
[sửa] Chấm dứt chiến tranh
Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, năm sau định đánh thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
[sửa] Trần Hưng Đạo
Xem bài chính: Trần Hưng Đạo
[sửa] Kinh tế-xã hội
[sửa] Hành chính
Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép như sau:
Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11, 1242: Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại tư xã, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan.
Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các chức vụ quan trọng này. Sách Cương mục chính biên có ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá, Hoàng Giang, Diễn Châu.
[sửa] Luật pháp
Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. ĐVSKTT có chép lại như sau:
Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.
Định bị đồ có mức độ khác nhau:
- Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc.
- Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành, thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương.
Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức quan kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành đại an phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn.
[sửa] Kinh tế
Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt sử ký toàn thư có chép Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào (là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu.
Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương.
Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua.
[sửa] Ngoại giao
Trong triều đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Mông Cổ ở phía Bắc thì Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng. Đó là Ai Lao và Chiêm Thành.
[sửa] Với Ai Lao
Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh đi dẹp gặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần, mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích đánh chiếm lấy đất nước này.
[sửa] Với Chiêm Thành
Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa. Trong đời vua Trần Nhân Tông, sau khi chinh phạt Chiêm Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự giao hảo tốt đẹp. Đến đời vua Trần Anh Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng và trong lúc sang thăm vãn cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của 2 nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng như cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải bị hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào thăm rồi tìm kế rước về.
Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và đòi lại 2 châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế Chỉ là Chế Đà A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông, con và rể của vua Chiêm Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm Thành đánh bại cả 2 lần. Lúc bấy giờ thấy thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh đòi lại 2 châu đã mất. Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng Nga, một ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần Duệ Tông bị tử trận, Lê Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên, Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Lê Quý Ly nhiều lần ra trận bị thua, quân Chiêm ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành chạy. Quân Chiêm cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau đó lại được nhấc lên địa vị cao hơn.
Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn. Vua Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt nữa.
[sửa] Hệ thống thi cử
Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang. Nho học rất được toàn thịnh.
[sửa] Việc thi cử
Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.
[sửa] Mở trường học
Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học Viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng.
[sửa] Những học giả nổi tiếng
Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của nước ta. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch tướng sĩ.
[sửa] Văn Nôm
Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép:
Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.
[sửa] Tôn giáo
Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. ĐVSKTT chép lại Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chổ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để thờ.
Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời nhà Lý.
[sửa] Thời kỳ suy tàn
Nhà Trần đã có một thời đại rất hưng thịnh, đã từng đại phá quân Nguyên cũng như bình phục được Chiêm Thành, nhưng kể từ khi thái thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời, vua Trần Dụ Tông ham mê tửu sắc, phó mặc mọi việc triều chính để cho nhà Trần bước vào giai đoạn suy vi và sau cùng bị mất ngôi.
Vua Trần Dụ Tông chẳng những bỏ bê triều chính mà còn ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.
Chu Văn An, một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng thất trảm sớ đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học.
Năm 1369, Trần Dụ Tông mất, một người con là Nhật Lễ lên thay. Theo sử sách, Nhật Lễ không phải là con Dụ Tông mà mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương, đã mang thai Lễ trước khi làm vợ Dụ Tông. Vì vậy sử vẫn gọi tên người con là Dương Nhật Lễ. Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương. Sau Lễ lại giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng thái hậu vì bà đã hối hận việc lập Nhật Lễ. Người tôn thất và các quan đều thất vọng. Tháng 10 năm 1370, các tôn thất nhà Trần hợp mưu lật đổ và bắt giết Nhật Lễ, đưa con thứ 3 của vua minh Tông là Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
Nghệ Tông làm vua được 2 năm, lên làm thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Kính lên thay, tức là Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, thượng hoàng Nghệ Tông lập con Duệ Tông là Phế Đế lên thay. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Lê Quý Ly (tức Hồ Quý Ly). Do đó, Quý Ly xúi giục Nghệ Tông giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả vua Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ[2]. Con Nghệ Tông là Thuận Tông (đồng thời là con rể Quý Ly) được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền.
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vua mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Hồ Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thiếu Đế khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông và chuẩn bị cướp ngôi.
Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Trần Khát Chân lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ.
[sửa] Nhận định
[sửa] Về chiến thắng Mông-Nguyên
Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...
Mông-Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á- Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại chiến công 3 lần đánh đuổi Mông-Nguyên của nhà Trần.
[sửa] Về hậu kỳ nhà Trần
Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn.
Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Dụ Tông xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Đế Hiện đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của cha mình (Duệ Tông), không những không trừng trị đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng gia phong! Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là cường thần hiếp chúa. Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có.
Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Mông-Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê).
Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.
Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau.
[sửa] Các vua nhà Trần
Miếu hiệu | Niên hiệu | Tên | Sinh- Mất | Trị vì | Thụy hiệu | Lăng |
---|---|---|---|---|---|---|
Thái Tông | Kiến Trung (1226-1232) Thiên Ứng Chính Bình (1232-1251) Nguyên Phong (1251-1258) |
Trần Cảnh | 1218-1277 | 1226-1258 | Nguyên Hiếu Hoàng đế | Chiêu Lăng |
Thánh Tông | Thiệu Long (1258-1272) Bảo Phù (1273-1278) |
Trần Hoảng | 1240-1291 | 1258-1278 | Tuyên Hiếu Hoàng Đế | Dụ Lăng |
Nhân Tông | Thiệu Bảo (1278-1285) Trùng Hưng (1285-1293) |
Trần Khâm | 1258-1308 | 1278-1293 | Duệ Hiếu Hoàng Đế | Đức Lăng |
Anh Tông | Hưng Long | Trần Thuyên | 1276-1320 | 1293-1314 | Nhân Hiếu Hoàng Đế | Thái Lăng |
Minh Tông | Đại Khánh (1314-1323) Khai Thái (1324-1329) |
Trần Mạnh | 1300-1357 | 1314-1329 | Văn Triết Hoàng Đế | Mục Lăng |
Hiến Tông | Khai Hựu | Trần Vượng | 1319-1341 | 1329-1341 | ? | Xương An Lăng |
Dụ Tông | Thiệu Phong (1341-1357) Đại Trị (1358-1369) |
Trần Hạo | 1336-1369 | 1341-1369 | ? | Phụ Lăng |
Hôn Đức Công | Đại Định | Dương Nhật Lễ | ?-1370 | 1369-1370 | tiếm ngôi | bị giết |
Nghệ Tông | Thiệu Khánh | Trần Phủ | 1321-1394 | 1370-1372 | Anh Triết Hoàng Đế | Nguyên Lăng |
Duệ Tông | Long Khánh | Trần Kính | 1337-1377 | 1373-1377 | ? | Hy Lăng |
Phế Đế | Xương Phù | Trần Hiện | 1361-1388 | 1377-1388 | phế làm Linh Đức Vương | An Bài Sơn |
Thuận Tông | Quang Thái | Trần Ngung | 1378-1399 | 1388-1398 | ép nhường ngôi và ép chết | Yên Sinh Lăng |
Thiếu Đế | Kiến Tân | Trần An | 1396-? | 1398-1400 | bị Hồ Quý Ly cướp ngôi phế làm Bảo Ninh Đại Vương |
? |
[sửa] Thế phả nhà Trần
1 Trần Thái Tông 1226 - 1258 |
||||||||||||||
2 Trần Thánh Tông 1258 - 1278 |
||||||||||||||
3 Trần Nhân Tông 1278 - 1293 |
||||||||||||||
4 Trần Anh Tông 1293 - 1314 |
||||||||||||||
5 Trần Minh Tông 1314 - 1329 |
||||||||||||||
8 Trần Nghệ Tông 1370 - 1372 |
6 Trần Hiến Tông 1329 - 1341 |
7 Trần Dụ Tông 1341 - 1369 |
9 Trần Duệ Tông 1373 - 1377 |
|||||||||||
11 Trần Thuận Tông 1388 - 1398 |
10 Trần Phế Đế 1377 - 1388 |
|||||||||||||
12 Trần Thiếu Đế 1398 - 1400 |
||||||||||||||
[sửa] Xem thêm
- Lịch sử Chiêm Thành
[sửa] Liên kết ngoài
- Đại Việt sử ký toàn thư - Bản điện tử
- Khâm định Việt sử Thông giám cương mục - Bản điện tử
- Dấu vết 'kinh đô thứ hai' của nhà Trần trên VnExpress ngày 13 tháng 12 năm 2006
[sửa] Chú thích
- ▲ Trần Bình Trọng là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính
- ▲ Quý Ly nói với thượng hoàng nên lập con mình chứ không nên lập cháu. Do đó Nghệ Tông kiếm tội phế truất cháu là Phế Đế (con Duệ Tông) mà lập con mình là Thuận Tông