Chúa Trịnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Lịch sử Việt Nam |
||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Các chúa Trịnh (1545-1787) là một tập hợp những nhà kiểm soát quyền lực nhà nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê, nhà vua không có thực quyền vẫn được giữ lại. Bộ máy triều đình lúc này hoạt động theo thể chế lưỡng đầu.
Mục lục |
[sửa] Nổi lên nắm quyền lực
Các vua nhà Lê tiếp sau vua Lê Thánh Tông toàn là những người yếu ớt và vào năm 1527 Mạc Đăng Dung đã lật đổ nhà Lê. Ông thay thế vị vua nhà Lê là Lê Cung Hoàng và bắt đầu một triều đại mới. Vị vua mới của nhà Mạc bị coi là loạn thần và từ Thanh Hóa Nguyễn Kim đã nổi dậy chống lại nhà Mạc, tôn lập hậu duệ nhà Lê là Lê Duy Ninh làm vua, tức là Lê Trang Tông (còn gọi nhà Lê Trung hưng). Trong vòng 5 năm, tất cả các vùng phía nam sông Hồng nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Lê Trung hưng nhưng họ không thể chiếm Thăng Long. Trong thời gian này, nhà Lê cũng phát triển thế lực về phía Nam, chiếm quyền kiểm soát vùng cực nam lãnh thổ nơi từng là đất đai của Chăm pa.
Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Tương truyền thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm nghèo, mẹ thích ăn gà nên ông thường bắt trộm gà của hàng xóm cho mẹ ăn. Hàng xóm rất ghét, nhân khi Trịnh Kiểm đi vắng bèn bắt mẹ ông ném xuống vực. Trịnh Kiểm về không thấy mẹ đâu bèn đi tìm, đến vực tìm ra xác mẹ thì mối đã xông đầy lên rồi. Sau có ông thày tướng đi qua chỉ vào ngôi mộ mẹ Trịnh Kiểm đọc rằng:
Phi đế phi bá
Quyền khuynh thiên hạ
Truyền tộ bát đại
Tiêu tường khởi vạ
Nghĩa là:
Chẳng đế chẳng bá
Quyền nghiêng thiên hạ
Truyền được tám đời
Trong nhà dấy vạ
Mẹ mất, nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn đến xin gia nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái là Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực Quận công. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn thể quân đội.
[sửa] "Phù Lê diệt Mạc"
[sửa] "Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ"
Nắm quyền trong triều đình Nam triều nhà Lê, trước hết Trịnh Kiểm lo đối phó với các con của Nguyễn Kim để củng cố quyền lực. Ông đầu độc giết con cả của Kim là Nguyễn Uông. Người con thứ là Nguyễn Hoàng sợ hãi xin xuống trấn giữ vùng Thuận Hoá phía Nam. Trịnh Kiểm cho rằng giết cả hai anh em Hoàng sẽ mang tiếng, mà Thuận Hóa là nơi xa xôi, "ô châu ác địa" nên bằng lòng cho Hoàng vào đó để mượn tay nhà Mạc giết Hoàng. Từ đó Trịnh Kiểm nắm toàn bộ quyền hành của nhà Lê, xây dựng sự nghiệp cho họ Trịnh.
Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê, nhưng còn do dự sợ dư luận, bèn sai người tìm đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bấy giờ đang ẩn dật. Nghe theo lời khuyên của Trạng Trình ("Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản"), Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang, cháu 5 đời của Lê Trừ (anh Lê Lợi), lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò, làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu. Bởi vậy người đời truyền lại câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong".
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con là Trình Cối và Trịnh Tùng tranh quyền. Hai anh em dàn quân đánh nhau. Cùng lúc đó quân Mạc từ bắc kéo vào. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai đường không thể cự nổi bèn đầu hàng nhà Mạc, được nhà Mạc thu nhận và phong chức.
Bản ý của vua Lê Anh Tông là ủng hộ ngôi con trưởng của Trịnh Cối, do đó mâu thuẫn với Trịnh Tùng. Vua Anh Tông mang 4 người con lánh đi nơi khác. Trịnh Tùng lập người con út của vua là Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông. Sau đó, Trịnh Tùng lùng bắt được cha con vua Anh Tông mang về giết chết. Từ đó vua Lê hoàn toàn nép trong cung, Trịnh Tùng tự mình xử trí mọi việc trong triều. Các vua Lê sau có ý định chống lại đều bị xử tử và thay thế bằng một hoàng đế nhỏ tuổi hoặc dễ bảo hơn.
[sửa] Khôi phục Thăng Long
Xem chi tiết: Chiến tranh Lê-Mạc, nhà Mạc
Từ khi Trịnh Kiểm nắm quyền, họ Trịnh cai quản vùng phía nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là chiến đấu dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía bắc. Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu "Phù Lê diệt Mạc", thanh thế họ Trịnh ngày một lớn. Ở vùng Tây bắc, anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên cát cứ tại Tuyên Quang sai người đến xin quy phục. Sau đó năm 1550, thái tể nhà Mạc là Lê Bá Ly là cựu thần nhà Lê sơ cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến về hàng.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co. Được tăng sức mạnh, họ Trịnh liên tiếp tấn công ra bắc đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long. Nhà Mạc lúc đó dưới sự chèo lái của Khiêm vương Mạc Kính Điển đã đứng vững. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê-Trịnh vẫn không vào được Thăng Long. Ngược lại, sau những đợt tấn công ra bắc, quân Trịnh cũng phải đối phó với những đợt tiến công vào Thanh Hóa - Nghệ An của Mạc Kính Điển. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê-Trịnh, Nguyễn Quyện bên Mạc.
Sau khi trấn thủ Thuận Hoá (năm 1558), năm 1570, Nguyễn Hoàng lại xin trấn thủ Quảng Nam. Chúa Trịnh mải lo chiến trường phía bắc nên chấp thuận. Năm 1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Sau khi Mạc Kính Điển chết (1580), nhà Mạc bắt đầu suy yếu. Vua Mạc là Mậu Hợp ít lo chính sự, phụ chính Mạc Đôn Nhượng không đủ năng lực. Quân Lê-Trịnh bắt đầu chiếm ưu thế. Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt rồi bị giết, hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.
Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên (xem thêm bài về nhà Mạc) nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến ác liêt tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân Mạc thua to. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Sau vài cuộc chiến khác chống lại các thế lực tàn dư nhà Mạc, Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long năm 1593.
[sửa] Dẹp tàn dư họ Mạc
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung cho tới năm 1623. Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Vì vậy cháu Mạc Kính Điển là Kính Khoan và con Khoan là Kính Vũ vẫn cát cứ ở Cao Bằng, dù về cơ bản, họ Trịnh đã làm chủ Bắc Bộ và Bắc Trung bộ.
Khi nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, chúa Trịnh Tạc sai tướng Đinh Văn Tả đi đánh, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.
[sửa] Trịnh - Nguyễn phân tranh
Sau khi Nguyễn Hoàng xuống phía Nam đã xây dựng căn cứ và phát triển thành một thế lực độc lập, hình thành chính quyền của họ Nguyễn. Tuy các chúa Nguyễn vẫn hợp tác với chúa Trịnh để chống nhà Mạc và vẫn đứng danh nghĩa là thần tử nhà Lê, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn cai trị các tỉnh biên giới phía Nam Đại Việt với một chính quyền độc lập. Hơn thế nữa, họ đã có công mở rộng lãnh thổ Đại Việt lên gấp đôi về phía Nam. Sau khi đánh bại nhà Mạc, sự độc lập của các chúa Nguyễn ngày càng trở nên khó chịu đối với các chúa Trịnh.
Những sự căng thẳng lên đỉnh điểm năm 1627 khi chiến tranh nổ ra giữa hai phe. Trong khi phe chúa Trịnh kiểm soát một vùng rộng lớn và đông dân cư hơn, thì chúa Nguyễn lại có nhiều ưu thế. Thứ nhất, họ chỉ muốn bảo vệ lãnh thổ của mình, họ không muốn tấn công miền bắc. Thứ hai, chúa Nguyễn có thể lợi dụng ưu thế về các tiếp xúc của mình với những người châu Âu, đặc biệt là những người Bồ Đào Nha, để mua các loại súng hiện đại của châu Âu. Thứ ba, điều kiện địa lý cũng ưu đãi cho họ, đất đai phẳng vốn thích hợp cho những quân đội được tổ chức lớn lại hiếm có ở lãnh thổ của họ, nơi núi non hầu như lan ra đến tận biển.
Chúa Nguyễn xây dựng hai giới tuyến rất vững chắc kéo dài vài dặm từ biển đến tận các ngọn đồi ở phía bắc thành Phú Xuân. Họ đã bảo vệ hai giới tuyến này chống lại nhiều cuộc tấn công của các chúa Trịnh. Trong thời gian từ 1627 đến tận 1672, hai bên giao chiến cả thảy 7 lần. Năm 1655, quân Nguyễn thắng thế vượt sông Gianh đánh Nghệ An, chiếm 7 huyện và mang theo nhiều dân cư ở đây vào khai khẩn trong nam. Năm sau quân Trịnh phản công chiếm lại.
Năm 1672, hai ben đình chiến, Tây Định vương Trịnh Tạc và HIền vương Nguyễn Phúc Tần lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt Việt Nam. Đất nước bị chia ra bởi hai gia đình cai trị. Hai bên cùng mang danh nghĩa tôn phò nhà Hậu Lê.
[sửa] Dẹp yên khởi nghĩa nông dân
Các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương đều là những chúa giỏi cai trị. Sau khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn và Trịnh-Mạc chấm dứt, Bắc Hà yên ổn thịnh trị.
Các chúa Trịnh cai trị khá tốt, luôn giữ hư danh cho vua nhà Lê. Tuy nhiên họ là người lựa chọn ra vua, họ thay thế vua khi họ thích và họ cũng có quyền cha truyền con nối để chỉ định nhiều quan chức hàng đầu trong triều đình. Không giống như các chúa Nguyễn, những người thường gây chiến với Đế chế Khmer và Xiêm La, các chúa Trịnh giữ quan hệ hòa bình hữu hảo với các nước láng giềng.
Năm 1729, Trịnh Cương chết, con là Trịnh Giang lên thay. Trịnh Giang phế bỏ vua Lê là Duy Phường (1729-1732), lập Lê Thuần Tông (anh Duy Phường), tư thông với cung nữ của cha, lại gây ra thuế khóa nặng nề làm mất lòng dân. Từ đó nông dân liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa. Đó chính là phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài.
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa. Năm 1739, hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa. Đến năm 1740 đồng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn của quận He Nguyễn Hữu Cầu, quận Hẻo Nguyễn Danh Phương và Hoàng Công Chất bùng phát. Chính sự Bắc Hà hết sức rối ren.
Trịnh Giang không khắc phục được khó khăn, lại mắc bệnh nằm bẹp dưới nhà hầm không điều hành được công việc. Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh phế bỏ Trịnh Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài năng, Trịnh Doanh điều chỉnh chính sách, ra tay đánh dẹp, dần dần củng cố lại tình hình Bắc bộ. Trong cuộc chinh phạt các cuộc khởi nghĩa, nổi lên tên tuổi các danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Phạm Đình Trọng. Đến khi Trịnh Doanh mất (1767), cơ bản các cuộc khởi nghĩa đều bị dẹp tan, chỉ còn Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật. Con Doanh là Trịnh Sâm lên ngôi nhanh chóng dẹp nốt các cuộc khởi nghĩa này năm 1769.
[sửa] Lê bại Trịnh vong
[sửa] Tây Sơn khởi nghĩa
Hòa bình lâu dài với Đàng Trong kết thúc khi cuộc nổi dậy Tây Sơn ở phía nam chống lại chúa Nguyễn bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn được chúa Trịnh Sâm coi là một cơ hội để kết liễu chúa Nguyễn ở miền nam Việt Nam. Năm 1774, Trịnh Sâm cử lão tướng quận Việp Hoàng Ngũ Phúc mang quân tấn công và chiếm Phú Xuân. Quân Trịnh tiếp tục tiến về phía nam trong khi quân Tây Sơn chiếm các thành khác ở trong nam. Các chúa Nguyễn giữ Gia Định tới tận khi nó bị chiếm vào năm 1777 và dòng họ nhà Nguyễn gần như bị tiêu diệt.
Lần đầu tiên bờ cõi của Lê-Trịnh được mở rộng đến Quảng Nam.
[sửa] "Truyền tộ bát đại, tiêu tường khởi vạ"
Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm là truyền được 8 đời chúa. Năm 1782, Trịnh Sâm chết. Ngay từ khi Sâm còn sống đã diễn ra cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa con trưởng Trịnh Tông và con thứ Trịnh Cán. Cán còn nhỏ nên thực chất đó là phe Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi lôi kéo quận Huy là Hoàng Đình Bảo (cháu Hoàng Ngũ Phúc). Vì Tuyên phi được sủng ái nên Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi Sâm chết, Trịnh Cán lên thay, quận Huy phụ chính. Quân kiêu binh giúp Trịnh Tông làm binh biến giết chết quận Huy, phế bỏ Trịnh Cán và đưa Tông lên ngôi chúa, đổi tên là Khải.
Tuy nhiên từ khi Trịnh Tông lên ngôi, chính sự cũng không sáng sủa. Quân kiêu binh cậy công làm càn, cướp của, phá phách kinh đô, kể cả nhà các quan lại. Trịnh Tông không dẹp nổi.
Ngoài biên cương, sau khi quận Việp mất, thành Phú Xuân giao cho Bùi Thế Đạt. Sau Đạt cũng rút về bắc giao lại cho Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể. Tướng sĩ kiêu ngạo, lơ là mất cảnh giác phòng bị.
[sửa] Vua chúa cùng chạy
Tây Sơn không muốn trở thành kẻ bầy tôi của các chúa Trịnh và sau một vài năm củng cố quyền lực ở phía nam, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ tiến ra phía bắc Đại Việt vào giữa năm 1786 với một đội quân đông đảo. Quân Trịnh bị quân Tây Sơn đánh bại và chúa Trịnh Khải phải chạy về phía bắc và sau đó bị giết.
Tây Sơn rút về, các bầy tôi cũ lại lập con Trịnh Giang là Trịnh Bồng lên ngôi. Vua Lê mới là Chiêu Thống muốn chấn hưng nhà Lê nên triệu Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn thủ Nghệ An ra giúp. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích.
Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm ra giết Chỉnh rồi đến lượt Nhậm lại mưu cát cứ ở Bắc Hà khiến Lê Chiêu Thống phải bỏ đi lưu vong, chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Vua Càn Long điều một đội quân lớn tới Việt Nam nhằm tái lập vua Lê. Quân Thanh chiếm được Thăng Long năm 1788 nhưng sau đó bị Nguyễn Huệ giáng cho một đòn nặng nề đầu năm 1789. Quân Thanh thua to, rút chạy. Nguyễn Huệ -lúc ấy đã là hoàng đế Quang Trung - sau đó được vua Thanh công nhận và chính thức thay họ Lê cai trị nước Đại Việt. Chiêu Thống lưu vong và chết ở Trung Quốc. (xem bài về nhà Tây Sơn và Nguyễn Huệ).
Các chúa Trịnh cầm quyền từ năm 1545 đến năm 1787, tổng cộng 243 năm, được 10 đời chúa. Nếu kể cả Trịnh Cối và Trịnh Cán là có 12 chúa. Xét ra đời Trịnh Khải, Trịnh Bồng ngắn và rối ren nên thường chỉ tính 8 đời cầm quyền vững vàng, thịnh trị của họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm như lời "sấm ngữ". Có lẽ câu chuyện về mẹ Trịnh Kiểm do đời sau đặt ra.
[sửa] Đánh giá
Các chúa Trịnh đã tránh một số vấn đề quản lý triều đình bằng cách lựa chọn người giỏi nhất từ thế hệ trẻ họ Trịnh để cai trị đất nước. Thứ bậc anh em không được họ Trịnh coi trọng nhiều và đã có lời nói rằng đứa con thứ hai sẽ trở thành người lãnh đạo tốt hơn. Giống như các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau này, các chúa Trịnh cũng gặp phải vấn đề với các cuộc nổi dậy của nông dân và việc không có ruộng đất đã trở thành một nguồn gốc gây nên các vấn đề cho triều đình.
Các chúa Trịnh chú ý tới việc giữ vững các quan hệ tốt với Trung Quốc và giữ gìn xã hội Khổng giáo hơn các chúa Nguyễn. Những người châu Âu hầu như không có lãi khi buôn bán với các chúa Trịnh, cả người Hà Lan (năm 1637) và người Anh (năm 1673) đều đã lập thương điếm nhỏ ở trung tâm Thăng Long nhưng không phát triển được.
Vào những năm sau này khi nhà Nguyễn nổi lên và cai trị toàn bộ Việt Nam, các chúa Trịnh đã bị đánh giá thấp, thậm chí lên án trong chính sử, điển hình là sách "Khâm định Việt sử Thông giám cương mục". Nếu nhìn nhận khách quan hơn, phần lớn các chúa Trịnh đều là những người tài. Như trên đã đề cập, chỉ trừ Trịnh Giang, các chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm đều là chúa giỏi, do đó đã hoàn thành việc đánh dẹp và cai trị phía Bắc Việt Nam, giữ cho xã hội Việt Nam ổn định trong gần 2 thế kỷ. Chiến tranh Trịnh-Nguyễn diễn ra trong 45 năm giữa thế kỷ 17 nhưng trong thời gian đó Bắc Hà không có cuộc bạo loạn, chống đối nào của nông dân.
Các chúa Trịnh Căn, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm ngoài võ công còn được đánh giá là những người hay chữ. 5 chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Căn đều rất thọ (từ 68 đến 81 tuổi), hẳn các chúa cũng phải là những sống người nghiêm túc và điều độ. Các thành tựu của nhà Lê trung hưng thực chất là thành tựu do các chúa Trịnh.
Hiển nhiên với ngôi vị "phi đế phi bá", vừa thực sự là người cầm trịch trong bộ máy chính quyền, vừa phải cảnh giác với sự nổi dậy đòi quyền của họ Lê, các chúa Trịnh phải luôn có thái độ cứng rắn, cương quyết, không thể ôn hòa như các vua Hiến Tông, Túc Tông nhà Lê sơ trước đây, nhằm bảo vệ địa vị của mình. Do đó việc phế lập tại triều đình trong cuộc đấu tranh đó là khó tránh khỏi. Chỉ có các vua Lê bằng lòng sống chung với họ Trịnh mới có thể tồn tại.
Trong 3 chúa cuối cùng của họ Trịnh, trừ Trịnh Cán quá nhỏ không đáng kể, hai chúa Trịnh Tông và Trịnh Bồng dù không đủ năng lực nhưng cũng là những người biết cách rút lui. Trịnh Tông tự vẫn không để mình lọt vào tay Tây Sơn, Trịnh Bồng bỏ đi mai danh ẩn tích khi biết dòng họ mình không còn đủ uy tín để giữ ngôi cai trị. Không ai trong họ Trịnh đi cầu viện nước ngoài như những người đứng đầu các tập đoàn song song tồn tại khi đó là Nguyễn Phúc Thuần (định cầu viện nhà Thanh), Nguyễn Ánh (cầu Xiêm, Pháp, Bồ), Lê Duy Kỳ (cầu viện Thanh). Lê và Trịnh gần như cùng mất một thời điểm nhưng cách rời bỏ vũ đài chính trị của họ Trịnh không giống với họ Lê.
[sửa] Danh sách niên đại các chúa Trịnh
- Trịnh Kiểm (1503-1570): Người cai trị đầu tiên, nắm quyền trong khoảng 1545-1570, trải qua ba đời vua: Lê Trang Tông (1533-1548), Lê Trung Tông (1548-1556) và Lê Anh Tông (1556-1573).
- Trịnh Tùng (1550-1623): con thứ của Trịnh Kiểm, nắm quyền trong khoảng 1570-1623, trải qua bốn đời vua: Lê Anh Tông (1556-1573), Lê Thế Tông (1573-1599), Lê Kính Tông (1600-1619) và Lê Thần Tông (1619-1643).
- Trịnh Tráng (1577-1657): Con cả Trịnh Tùng, nắm quyền trong khoảng 1623-1657, trải qua nhiều đời vua: Lê Chân Tông (1643-1649), Lê Thần Tông (lần hai: 1649-1662).
- Trịnh Tạc (1606-1682): Con Trịnh Tráng, nắm quyền trong khoảng 1657-1682, trải qua các thời vua: Lê Thần Tông (lần hai: 1649-1662), Lê Huyền Tông (1663-1671), Lê Gia Tông (1672-1675) và Lê Hy Tông (1676-1704).
- Trịnh Căn (1633-1709): Con Trịnh Tạc, nắm quyền trong khoảng 1682-1709, trải qua các thời vua: Lê Hy Tông (1676-1704), Lê Dụ Tông (1705-1729).
- Trịnh Cương (1690-1729): Chắt Trịnh Căn (con Trịnh Bính, cháu nội Trịnh Vĩnh), nắm quyền trong khoảng 1709-1729, trải qua thời vua Lê Dụ Tông (1705-1729) và Hôn Đức Công (1729-1732).
- Trịnh Giang (1709-1751): Con Trịnh Cương, nắm quyền trong khoảng 1729-1740, trải qua các thời vua Lê Thuần Tông (1732-1735) và Lê Ý Tông (1735-1740); bị phế truất năm 1740, mất năm 1751.
- Trịnh Doanh (1720-1767): Em Trịnh Giang, nắm quyền trong khoảng 1740-1767, trải qua các thời vua Lê Ý Tông (1735-1740) và Lê Hiển Tông (1740-1786).
- Trịnh Sâm (1739-1782): Con Trịnh Doanh, nắm quyền trong khoảng 1767-1782, trải qua thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786).
- Trịnh Cán (1777-1782): Con Trịnh Sâm, nắm quyền từ tháng 9 năm 1782 đến tháng 10 năm 1782 thời vua Lê Hiển Tông; bị phế làm Cung quốc công và mất sau loạn kiêu binh 1782.
- Trịnh Khải hay gọi theo tên cũ là Trịnh Tông (1763-1786): Anh Trịnh Cán, nắm quyền từ tháng 10 năm 1782 đến 1786 thời vua Lê Hiển Tông.
- Trịnh Bồng: Con Trịnh Giang, cầm quyền từ tháng 9 năm 1786 đến tháng 9 năm 1787 thời Lê Chiêu Thống. Trốn mất tích không biết kết cục ra sao.
[sửa] Xem thêm
- Danh sách các triều đại Việt Nam
- Nhà Hậu Lê
- Nhà Mạc
- Chúa Nguyễn
- Tây Sơn
[sửa] Nguồn
- Đại Việt Sử ký Toàn thư
- Đại Việt Thông sử
- Các triều đại Việt Nam
- List of the Trinh lords and the nominal Le Kings
- The Encyclopedia of Military History by R. Ernest Dupuy and Trevor N. Dupuy. Harper & Row (New York).
Trước: nhà Mạc |
Giúp nhà Hậu Lê cai trị miền bắc Việt Nam | Sau: nhà Tây Sơn |