Kim Dung
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kim Dung (金庸 Jin Yong; sinh vào năm 1924) là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại, và cũng là người đồng sáng lập của nhật báo Hồng Kông Minh Báo.
Từ năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 15 cuốn tiểu thuyết. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (trên 1 tỷ nếu tỉnh cả bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử.
Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2).
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (查良鏞 Cha Lieng Yung, Louis Cha), sinh tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, trong một gia đình khoa bảng danh giá. Ông cố Tra Thận Hành là nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội Tra Tự Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô.
Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở quê Hải Ninh, rồi học trung học ở Hàng Châu. Năm lên tám tuổi, ông đọc bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp, từ đó đã mơ ước viết truyện võ hiệp. Năm 15 tuổi, ông viết cuốn sách luyện thi vào lớp đệ thất (năm đầu trung học) được nhiều người mua, có thể nói đó là tác phẩm đầu tay. 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý châm biếm thầy hiệu trưởng nên bị đuổi học.
Sau đó ông học Luật quốc tế tại trường Chính trị Quốc gia Trùng Khánh, chưa tốt nghiệp lại bị đuổi vì tố cáo một vụ bê bối trong trường. Ông xin làm việc tại Thư viện trung ương, ở đó ông đọc nhiều sách, trong đó có Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông.
Năm 1946, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo, sau sang Thượng Hải học Luật quốc tế, rồi trúng tuyển làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đình.
Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân vấn báo, phụ trách mục Chuyện trà chiều. Ông viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân. Năm 1955, ông bắt đầu viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Tân vấn báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông.
Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xã luận. Qua những bài xã luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đã chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979.
Cũng lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đã được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình.
Nhưng năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.
Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.
Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.[1]
[sửa] Kim Dung ở Việt Nam
Dịch giả đầu tiên dịch tác phẩm Kim Dung tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản dịch Cô gái Đồ Long, in trên báo Đồng Nai vào năm 1961. Trên thực tế, trước đó, đã có một số bản dịch như Bích Huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, đến bản dịch Cô gái Đồ Long ra đời đã thực sự tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung tại miền Nam kéo dài mãi đến tận năm 1975. Hai dịch giả truyện Kim Dung nổi tiếng tại Việt Nam thời kỳ này là Hàn Giang Nhạn và Thương Lan. Một số nhà bình luận Kim Dung cũng nổi lên trong thời kỳ này như Đỗ Long Vân với loạt bài "Vô Kỵ giữa chúng ta".
Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân... với lý do "Văn hóa đồi trụy phản động". Lệnh cấm này duy trì mãi đến năm 1990. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với ảnh hưởng của phong trào Đổi mới, chính quyền Việt Nam đã bớt dần sự gắt gao với thể loại truyện võ hiệp. Một số phim và sách võ hiệp được phát hành. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet đã giúp cho nhiều người có cơ hội đọc sách Kim Dung qua mạng.
Nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên giới thiệu sự trở lại của tác phẩm Kim Dung với bạn đọc Việt Nam sau 1975 với tuyển tập "Kim Dung giữa đời tôi". Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên có bản quyền và phát hành tất cả các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung từ sau 1975. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua toàn bộ bản quyền tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Các bản văn được mua đều là những bản được chính Kim Dung hiệu đính và chỉnh sửa mới nhất. Kể từ tháng 6 năm 2006, toàn bộ tác phẩm của Kim Dung được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất.
Các dịch giả truyện Kim Dung được đánh giá cao trong thời kỳ này có Cao Tự Thanh và Vũ Đức Sao Biển. Ở hải ngoại, dịch giả Nguyễn Duy Chính cũng được xem là dịch giả có chất lượng dịch tốt nhất với hàng loạt bản dịch của ông được lưu truyền trên Internet.
[sửa] Tặng thưởng
Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.
Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Légion d'honneur năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.
Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge
[sửa] Tác phẩm
Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.
- Thư kiếm ân cừu lục (1955) (書劍恩仇錄)
- Bích huyết kiếm (1956) (碧血劍)
- Xạ điêu anh hùng truyện (1957) (射雕英雄傳)- tại Việt Nam được dịch thành Anh hùng xạ điêu.
- Tuyết sơn phi hồ (1959) (雪山飛狐)
- Thần điêu đại hiệp hay Thần điêu hiệp lữ (1959) (神雕俠侶).
- Phi hồ ngoại truyện (1960) (飛狐外傳)
- Bạch mã khiếu tây phong (1961) (白馬嘯西風)
- Uyên ương đao (1961) (鴛鴦刀)
- Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961) (倚天屠龍記)
- Liên thành quyết bản dịch của Vô Nại tiên sinh và của Hàn Giang Nhạn (1963) (連城訣)
- Thiên long bát bộ bản cũ và bản mới (1963) (天龍八部)
- Hiệp khách hành (1965) (俠客行)
- Tiếu ngạo giang hồ bản cũ, năm (1967) (笑傲江湖)
- Lộc Đỉnh ký bản cũ và bản mới (1969-1972) (鹿鼎記)
- Việt nữ kiếm (truyện ngắn, 1970) (越女劍)
3 truyện Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên đồ long ký tạo thành Xạ điêu tam bộ khúc, đọc theo lần lượt. Thiên Long bát bộ cũng có thể coi là mở đầu của bộ ba cuốn truyện trên. Tuyết sơn phi hồ và Phi hồ ngoại truyện cũng đi đôi với nhau vì có cùng các nhân vật.
[sửa] Cặp câu
Sau khi Kim Dung hoàn thành 14 tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông phát hiện rằng chữ đầu tiên của tựa đề của 14 tác phẩm tạo thành một cặp câu 7 chữ mỗi dòng.
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc
Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên
[sửa] Đề tài
Chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ, Mãn Châu. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn. Trong Anh hùng xạ điêu, hình tượng của Thành Cát Tư Hãn và các con của ông là những vị tướng tài giỏi đứng lên chống lại sự thối nát của triều đại Tống. Hoặc như trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung miêu tả vua Khang Hy nhà Thanh là một người có lòng trắc ẩn và có năng lực. Trong Thiên long bát bộ, Kiều Phong mặc dù là người Khiết Đan nhưng từ nhỏ đã được người Hán nuôi dưỡng. Chính điều đó đã khiến Kiều Phong ngăn cản vua Liêu rút quân.
Các tác phẩm của Kim Dung có thể coi là cuốn từ điển nhỏ về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, bao gồm các lĩnh vực y thuật dân tộc Trung Quốc, châm cứu, võ thuật, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo, các triết học của đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão, và lịch sử phong kiến Trung Hoa. Các nhân vật lịch sử hòa trộn vào các nhân vật trong truyện.
Các tác phẩm của ông rõ ràng đã tỏ lòng tôn trọng và tán thành các giá trị truyền thồng Trung Hoa, đặc biệt là các quan niệm Khổng giáo như là mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, anh em, và nhất là giữa sư phụ và đồ đệ, giữa các huynh đệ. Kim Dung cũng nhấn mạnh vào các giá trị truyền thống như là danh dự và thể diện.
Cuối cùng ông phá vỡ các phép tắc đó trong tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh ký. Vi Tiểu Bảo là một nhân vật chính nhưng không phải là anh hùng, mà lại là một kẻ tham lam, lười biếng, đáng khinh bỉ.
[sửa] Phê bình
Các tác phẩm của Kim Dung đã nhận được nhiều phê bình từ độc giả và các nhà phê bình văn học. Nghê Khuông, một nhà văn nổi tiếng và là bạn của Kim Dung đã viết rất nhiều bài viết phân tích các nhân vật và thế giới võ thuật trong các tác phẩm của ông.
Tuy nhiên nhiều tác phẩm của Kim Dung đã bị cấm ở nhiều nơi ngoài Hồng Kông vì những lí do chính trị. Nhiều tác phẩm bị cấm ở Trung Hoa đại lục vì bị cho là chế nhạo Mao Trạch Đông và Cải cách văn hóa. Chính quyền Đài Loan cũng cấm vì cho rằng các tác phẩm này ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hiện giờ các tác phẩm của Kim Dung không bị cấm nữa. Một số chính trị gia như Đặng Tiểu Bình còn là người hâm mộ các tác phẩm của ông.
Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên long bát bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc.
[sửa] Tác phẩm dựa Kim Dung
Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung (Võ lâm Ngũ bá), phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung xem tại đây
[sửa] Nhân vật
[sửa] Nhân vật nam
Các nhân vật nam chính thường được khắc họa từ khi còn nhỏ, cốt truyện tiếp nối các gian nan, thử thách của họ trước khi đạt tới trình độ võ công cao nhất;
- Trần Gia Lạc: Thư kiếm ân cừu lục
- Viên Thừa Chí: Bích huyết kiếm
- Quách Tĩnh: Anh hùng xạ điêu
- Dương Quá: Thần điêu đại hiệp
- Hồ Nhất Đao: Tuyết sơn phi hồ
- Miêu Nhân Phượng: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện
- Hồ Phỉ: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện
- Trương Thúy Sơn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Trương Vô Kỵ: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Địch Vân: Liên thành quyết
- Tiêu Phong: Thiên long bát bộ
- Đoàn Dự: Thiên long bát bộ
- Hư Trúc: Thiên long bát bộ
- Thạch Phá Thiên: Hiệp khách hành
- Lệnh Hồ Xung: Tiếu ngạo giang hồ
- Vi Tiểu Bảo: Lộc Đỉnh Ký
[sửa] Nhân vật nữ
Mặc dù nữ nhân vật trong nhiều tác phẩm võ thuật được tạo ra để minh hoạ cho tình yêu của các nhân vật nam, nhiều nhân vật nữ lại là trung tâm của cốt truyện, được miêu tả là những cá nhân không bị lệ thuộc, mạnh mẽ, độc lập, thông minh, và có võ thuật tài giỏi. Ví dụ, Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu' không chỉ là người Quách Tĩnh yêu mến mà còn là một cô gái dí dỏm, thông minh hơn cả chồng mình sau này là Quách Tĩnh. Năng lực trí tuệ của cô cùng với sức mạnh cơ thể của Quách Tĩnh đã bổ sung cho nhau. Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục là một người giỏi võ, một người chị biết che chở, một đứa con có hiếu, và là một người sẵn sàng bảo vệ cho lợi ích của những người thân của cô. Công chúa Hương Hương dù không biết võ thuật nhưng cô đóng vai trò quan trọng trong câu truyện. Cuối truyện, cô tỏ ra không chỉ xinh đẹp mà còn đủ thông minh đế biết được sự thèm muốn của Càn Long. Cô có lòng cam đảm để hi sinh chính mình để bảo vệ giá trị của bộ tộc và cảnh báo Trần Gia Lạc trước những âm mưu của Càn Long. Ân Tố Tố, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược được miêu tả có sự can đảm, quyết tâm và thông minh bằng, nếu không nói là hơn các nhân vật nam khác trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.
Các nữ nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung gồm có:
- Hương Hương công chúa: Thư kiếm ân cừu lục
- Hoắc Thanh Đồng: Thư kiếm ân cừu lục
- Lý Nguyên Chỉ: Thư kiếm ân cừu lục
- Hạ Thanh Thanh: Bích huyết kiếm
- A Cửu (Trường bình công chúa): Bích huyết kiếm
- Hoàng Dung: Anh hùng xạ điêu
- Tiểu long nữ: Thần điêu đại hiệp
- Viên Tử Y: Phi hồ ngoại truyện
- Trình Linh Tố: Phi hồ ngoại truyện
- Miêu Nhược Lan: Tuyết sơn phi hồ
- Ân Tố Tố: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Triệu Mẫn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Tiểu Chiêu: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Chu Chỉ Nhược: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Thích Phương: Liên thành Quyết
- Thủy Sinh: Liên thành Quyết
- A Châu: Thiên long bát bộ
- A Tử: Thiên long bát bộ
- Vương Ngữ Yên: Thiên long bát bộ
- Mộc Uyển Thanh: Thiên long bát bộ
- Chung Linh: Thiên long bát bộ
- Tiêu Trung Tuệ: Uyên ương đao
- Lý Văn Tú: Bạch mã khiếu tây phong
- Đinh Đang: Hiệp khách hành
- A Tú: Hiệp khách hành
- A Thanh: Việt Nữ kiếm
- Nhậm Doanh Doanh: Tiếu ngạo giang hồ
- Nhạc Linh San: Tiếu ngạo giang hồ
- Nghi Lâm: Tiếu ngạo giang hồ
- Song Nhi: Lộc Đỉnh ký
- Tô Thuyên: Lộc Đỉnh ký
- Tăng Nhu: Lộc Đỉnh ký
- Phương Di: Lộc Đỉnh ký
- Mộc Kiếm Bình: Lộc Đỉnh ký
- Kiến Ninh công chúa: Lộc Đỉnh ký
- A Kha: Lộc Đỉnh ký
[sửa] Ngũ tuyệt
"Thiên hạ ngũ tuyệt" là năm nhân vật được coi như có võ công cao nhất trong Xạ điêu tam bộ khúc. Ở lần gặp thứ nhất Hoa Sơn luận kiếm (chuyện xảy ra trước bộ Anh hùng xạ điêu nhưng được nhắc lại) đã phân định Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất. Ngũ tuyệt gồm có:
- Vương Trùng Dương ở trung tâm (Trung Thần Thông)
- Hoàng Dược sư ở phương Đông (Đông Tà)
- Âu Dương Phong ở phương Tây (Tây Độc)
- Đoàn Trí Hưng ở phương Nam (Nam Đế)
- Hồng Thất Công ở phương Bắc (Bắc Cái)
Ngoài ra, Lâm Triêu Anh và Cừu Thiên Nhận cũng được được coi trọng mặc dù vắng mặt trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất.
Lần Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, được kể cuối bộ Anh hùng xạ điêu, không phân thắng bại vì Âu Dương Phong đã bị tẩu hỏa nhập ma còn Cừu Thiên Nhận rút lui. Tuy vậy, Chu Bá Thông, sư đệ của Vương Trùng Dương có thể coi là người có võ công giỏi nhất tại thời điểm đó.
Ở lần Hoa Sơn luận kiếm thứ ba, được kể cuối bộ Thần điêu hiệp lữ, không còn Cừu Thiên Nhận và Kim Luân Pháp Vương vì đã chết. Hồng Thất Công và Âu Dương Phong cũng đã mất sau trận kịch đấu bất phân thắng bại. Kết cuộc, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh và Dương Quá thế chỗ Vương Trùng Dương, Hồng Thất Công và Âu Dương Phong trong danh sách ngũ tuyệt:
- Chu Bá Thông ở trung tâm (Trung Ngoan Đồng)
- Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)
- Dương Quá ở phương Tây (Tây Cuồng)
- Nhất Đăng ở phương Nam (Nam Tăng)
- Quách Tĩnh ở phương Bắc (Bắc Hiệp)
Nhất Đăng là pháp hiệu của Đoàn Trí Hưng sau khi thoái vị và trở thành hòa thượng.
[sửa] Độc Cô Cầu Bại
Độc Cô Cầu Bại là nhân vật độc nhất trong các tác phẩm của Kim Dung. Nhân vật này chưa bao giờ xuất hiện trong tác phẩm, nhưng có võ công tuyệt hảo. Chỉ có tên được nhắc đến trong Anh Hùng Xạ Điêu, Thần điêu đại hiệp, Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh Ký.
[sửa] Nhân vật lịch sử phỏng theo
Kim Dung đã phỏng theo nhiều nhân vật lịch sử vào các tác phẩm của mình. Ông tự do thêm các chi tiết hội thoại, hành động mà trong tiểu sử của những nhân vật này không đề cập đến. Ví dụ như Đà Lôi là con út của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện là bạn thời thơ ấu của Quách Tĩnh; Vi Tiểu Bảo trở thành bạn của vua Khang Hy
- Hoàn Nhan A Cốt Đả: Thiên long bát bộ
- Da Luật Hồng Cơ: Thiên long bát bộ
- Thành Cát Tư Hãn: Anh hùng xạ điêu
- Đà Lôi: Anh hùng xạ điêu
- Vương Trùng Dương: được đề cập đến trong Xạ điêu tam bộ khúc, người sáng lập ra Toàn Chân giáo
- Khâu Xứ Cơ: Anh hùng xạ điêu
- Hốt Tất Liệt: Thần điêu đại hiệp
- Chu Nguyên Chương: Ỷ Thiên Đồ Long ký
- Khang Hi: Lộc Đỉnh ký
- Càn Long: Thư kiếm ân cừu lục
- Vương quốc Đại Lý
- Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự (hay còn gọi là Đoàn Chính Nghiêm): Thiên long bát bộ
- Đoàn Trí Hưng: Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp
[sửa] Môn phái, bang hội
Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung thêm nhiều. Các môn phái, bang hội, giáo phái hay gặp nhất trong các tác phẩm của Kim Dung là:
- Thiếu Lâm
- Võ Đang
- Côn Luân
- Không Động
- Nga Mi
- Minh Giáo
- Cái Bang
- Ngũ Nhạc kiếm phái bao gồm
- Tung Sơn
- Thái Sơn
- Hoa Sơn
- Hành Sơn
- Hằng Sơn
- Đại Lý Đoàn Thị
[sửa] Thời biểu
Năm | Tiểu thuyết |
---|---|
Thế kỉ 6 TCN | Việt Nữ kiếm |
Thế kỉ 11 | Thiên long bát bộ |
Thế kỉ 12 | Anh hùng xạ điêu |
Thế kỉ 13 | Thần điêu đại hiệp |
Thế kỉ 14 | Ỷ thiên Đồ Long ký |
Thế kỉ 15 | |
Thế kỉ 16 | (Tiếu ngạo giang hồ)1 |
Thế kỉ 17 | Bích huyết kiếm Lộc Đỉnh ký |
Thế kỉ 18 | Thư kiếm ân cừu lục Phi hồ ngoại truyện Tuyết sơn phi hồ |
1 Tiếu ngạo giang hồ không nói rõ xảy ra vào thời gian nào; Kim Dung nói rằng ông cố tình bỏ ngỏ. Tuy vậy độc giả đã phát hiện ra rằng câu truyện có thể xảy ra vào thời Minh, bởi vì phái Võ Đang và Nga Mi (được lập lên vào đầu triều Minh) xuất hiện nổi bật, và bởi vì người Mãn Châu không được đề cập. Trong vài bộ phim chuyển thể như 'Swordsman II' với Lý Liên Kiệt đóng vai chính, câu truyện diễn ra vào thời vua Vạn Lịch, tức là cuối triều Minh, trước khi nhà Thanh xâm lấn.
[sửa] Xem thêm
- Cổ Long
- Ngoạ Long Sinh
- Dựa Kim Dung
- Giả Cổ Long
- Trần Thanh Vân
- Gia Cát Thanh Vân
- Nam Cung Thạch
- Ưu Đàm Hoa
- Lương Vũ Sinh
- Liễu Tàn Dương
[sửa] Phim ảnh
[sửa] Thư mục
- Đỗ Long Vân, Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung, Sài Gòn: Nxb Trình Bày, 1967
- Bửu Ý, "Kim Dung, Tạ Tốn và Ỷ Thiên Đồ Long", trong Tác giả thế kỷ 20, Sài Gòn: Nxb An Tiêm, 1967
- Tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/1998 (tác phẩm Tuyết sơn phi hồ và một số bài viết về Kim Dung)
- Nhiều tác giả, Kim Dung, tác phẩm và dư luận, Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, Hà Nội: Nxb Văn học, 2001
- Nguyễn Duy Chính, Đọc Kim Dung tìm hiểu văn hoá Trung Quốc, Tp.HCM: Nxb Trẻ, 2002
- Huỳnh Ngọc Chiến, Lai rai chén rượu giang hồ, Hà Nội: Nxb Văn học, 2002
- Kim Dung - Ikeda, Tìm kiếm một thế kỷ xán lạn-Đối thoại giữa Kim Dung và Ikeda, Lê Khánh Trường dịch, Hà Nội: Nxb Hội nhà văn, 2004
[sửa] Liên kết ngoài
- 15 tác phẩm võ hiệp Kim Dung
- Xem trực tuyến những bộ phim dựa theo tác phẩm của Kim Dung
- Đỗ Long Vân, Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung (có lời bàn của Nguyễn Quốc Trụ)
- Phương Hồng Diễm, Còn mãi Kim Dung, Phạm Tú Châu dịch
- Vũ Đức Sao Biển, Kim Dung giữa đời tôi
- Nguyên Nguyên, Thử đọc lại Kim Dung
- Một số bài viết về Kim Dung
|
|||
---|---|---|---|
|
|||
飛 | Phi hồ ngoại truyện | 笑 | Tiếu ngạo giang hồ |
雪 | Tuyết sơn phi hồ | 書 | Thư kiếm ân cừu lục |
連 | Liên thành quyết | 神 | Thần điêu hiệp lữ |
天 | Thiên long bát bộ | 俠 | Hiệp khách hành |
射 | Xạ điêu anh hùng truyện | 倚 | Ỷ thiên Đồ long ký |
白 | Bạch mã khiếu tây phong | 碧 | Bích huyết kiếm |
鹿 | Lộc Đỉnh ký | 鴛 | Uyên Ương đao |
|
|||
越女劍 Việt nữ kiếm | sửa |