Lý Liên Kiệt
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lý Liên Kiệt (phồn thể: 李連杰; giản thể: 李连杰; bính âm: Lǐ Liánjié; Wade-Giles: Li Lien-chieh; Quảng Đông: Ley5 Lin4 Git6; tên tiếng Anh: Jet Li Lian Jie; sinh ngày 26 tháng 4, 1963 tại Bắc Kinh - Trung quốc) là một diễn viên võ thuật nổi tiếng.
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Lý Liên Kiệt tập wushu từ 8 tuổi, cùng một sư phụ với Chân Tử Đan, anh đã sớm bộc lộ năng khiếu và tư chất để trở thành một cao thủ.
Cũng như Lý Tiểu Long, Lý Liên Kiệt không có một thể trạng hoàn hảo, anh yếu đuối, lại sống trong một gia đình có quá nhiều áp lực, nên nhiều lần đã định bỏ cuộc. Nhưng được sư phụ động viên, anh đã vượt qua được.
Năm 1974, Lý Liên Kiệt mới 11 tuổi, đã trở thành nhà vô địch giải Wushu trẻ toàn Trung quốc. Mọi người gọi anh là "thần đồng võ thuật". Lúc này Lý Liên Kiệt đã nhận được nhiều lời mời đóng phim và quảng cáo, nhưng nghĩ mình chưa đạt tới trình độ siêu đẳng, anh trở về với sư phụ Hồ Bình.
Lúc này tên tuổi của anh làm rung động cả thế giới, nhất là từ khi được vinh dự biểu diễn cho tổng thống Mỹ Nixon xem tại Nhà Trắng (1974).
Nhiều năm sau, Lý Liên Kiệt liên tục giật giải quán quân trong các kỳ thi võ thuật, với màn múa thương và kiếm rất đẹp mắt (1975, 1977, 1978). Đến năm 1979, anh đoạt giải thành tựu Vàng của Tổng hội võ thuật Trung Quốc khi mới 16 tuổi.
Ba năm sau, Lý Liên Kiệt tham gia bộ phim điện ảnh đầu tiên: Thiếu Lâm tự, bộ phim làm ngất ngây khán giả hâm mộ phim võ thuật, đưa tên tuổi của anh vào hàng siêu sao, bắt đầu có ảnh hưởng đến khán giả ở Đông Nam Á, Nhật Bản và Mỹ. Anh tiếp tục đóng các phim về Thiếu Lâm và gây được tiếng vang rất lớn.
[sửa] Nghiệp diễn
Lý Liên Kiệt được yêu thích không phải nhờ khả năng diễn suất mà là các thế võ đẹp, lạ, mạnh mẽ đúng chất Thiếu Lâm của anh.
Năm 1991, với bộ phim Hoàng Phi Hồng kinh điển, Lý Liên Kiệt đã đưa tên tuổi của mình đến được Hollywood, khán giả Đông Nam Á thì đâu đâu cũng nhắc đến Hoàng Phi Hồng, Dì mười ba, Quỷ Cước Thất, là các nhân vật trong phim này. Phần thành công của phim cũng nhờ sự đạo diễn tài tình của Từ Khắc, và Viên Hòa Bình.
Tiếp đến là hàng loạt các phim kinh điển: Phương Thế Ngọc 1 & 2, Hoàng Phi Hồng 2 & 3, ...đã đưa anh đến đỉnh cao vinh quang, trước hết là một hình tượng anh hùng trong lòng người châu Á, sau đó là thế giới. Nhưng Lý Liên Kiệt không ham danh vọng, anh đã dừng đóng phim một thời gian, có người thắc mắc thì anh nói: "Tôi từ nhỏ đã khổ cực, mục đích sống của tôi chỉ là thoát khỏi khổ cực, chứ danh tiếng thì không đem lại hương vị gì".
Lý Liên Kiệt sùng bá đạo Phật, đời sống của anh rất thanh tịnh, sau những lúc đóng phim mệt nhọc, anh thường đi dạo bộ hoặc ngồi thiền. Đã nhiều lần anh định đi tu, nhưng nghĩ đến cha mẹ, chuyện vợ con lại thôi. Sau này người ta thường nghe Lý nhắc lại ý định này. Anh đang tu tại gia, ăn chay niệm phật, anh đã là một thầy tu duy chỉ không xuất gia mà thôi.
Một thời gian sau người ta nghe Lý có chuyện cãi vã về vấn đề tiền bạc với một đạo diễn, và dính líu tới hội Tam Hoàng Thượng Hải. Hiểu rằng anh đang khó khăn, nhiều đạo diễn có ý mời, Lý Liên Kiệt đã chọn đạo diễn Wong Jing.
Các phim anh đóng lúc này khá "khác" với hình tượng, những vai Xã hội đen rùng rợn và hài hước nhiều hơn, ít khi đánh đấm, lại đi bên cạnh là một mỹ nhân hết sức gợi cảm như kiểu Mỹ: Cận Vệ Trung Nam Hải với Chung Lệ Đề.
Hay các phim hành động dàn dựng như Long Tại Giang Hồ, High Rish...
Cho đến khi Viên Hòa Bình, nhà chỉ đạo võ thuật nổi tiếng nhất bấy giờ mời anh đóng bộ Cú đấm truyền thuyết (hay Tinh Võ anh hùng) - một phim về Trần Chân, mà nhiều diễn viên võ thuật đã rất thành công (Như Lý Tiểu Long với Tinh Võ Môn, Chân Tử Đan với Tinh Võ Môn 1995). Và Lý Liên Kiệt đã làm dậy lại được hình tượng này - cũng như hình tượng anh hùng võ thuật cổ truyền của mình. Tên tuổi của anh lại được tung hô, Lý hoạt động rầm rộ hơn trước.
Anh hợp tác với nhiều diễn viên nổi tiếng, như Trương Học Hữu, Khưu Thục Trinh, Châu Tinh Trì, Trương Mạn Ngọc...Nhờ thế phim anh được rất nhiều người đón nhận.
Đến năm 2001, đạo diễn Trương Nghệ Mưu lần đầu tiên làm phim võ hiệp: Anh Hùng, Lý đóng vai chính. Đây là lần thứ hai Lý Liên Kiệt với lối võ mạnh mẽ đối đầu với Chân Tử Đan - lối võ đẹp mắt. Cả hai lại bất phân thắng bại: vai Vô Danh của Lý Liên Kiệt chiến thắng, nhưng sự thật là vai Trường Không của Chân Tử Đan giả thua. Người hâm mộ vẫn luôn chờ đợi lần hợp tác thứ 3 của 2 võ sư nổi danh này. Cuộc đối đầu của họ trên cọc gỗ trong Hoàng Phi Hồng 2 và cuộc đối đầu trong tư tưởng- âm nhạc tại Ngự Viên - phim Anh Hùng đã đem lại sự mầu nhiệm, hai nhà đạo diễn tài ba Từ Khắc và Trương Nghệ Mưu không ngớt lời khen 2 pha võ này.
Trong phim Anh Hùng, bên cạnh Chân Tử Đan, còn có Lương Triều Vĩ, Trương Mạn Ngọc, Chương Tử Di, Trần Đạo Minh là những diễn viên "chuyên trị" diễn xuất nội tâm. Nên nhiều người đánh giá diễn xuất của Lý là lép vế, tuy nhiên thành công về nghệ thuật của phim là một điều không ai mơ hồ chối cãi được. Anh Hùng có thể là bộ phim đẹp nhất đời của Lý Liên Kiệt.
Anh đến Hollywood sau Lý Tiểu Long, Thành Long, cùng một lúc với Dương Tử Quỳnh, trước Chân Tử Đan, một điều không nhiều người mong muốn -là bị đồng hóa theo phim Mỹ - đã trở thành sự thật Người tiếp theo sẽ là ai ? người hâm hộ vẫn mong Chân Tử Đan đem chuông đi đánh xứ người một cách thận trọng, không đi theo vết xe của Thành Long và Lý Liên Kiệt.
Nhưng dù sao khi xem lại "Hoàng Phi Hồng 1 - 2 - 3" " Phương Thế Ngọc 1 - 2", "Tiếu Ngạo Giang Hồ", "Tinh Võ anh hùng", người ta đã có thể quên đi "Đấu đến chết", "Anh em song sinh", "Rogue", "Con chó Danny"...mà không trách sự tây hóa trong phim Lý Liên Kiệt.
Năm 2006, anh đang trở lại võ thuật chính thống với bộ phim Hoắc Nguyên Giáp. Tiếp theo là bộ "Trận chiến Xích Bích" (The battle of the Red Cliff), một phim lịch sử.
[sửa] Các phim nổi tiếng
- 1982: Thiếu Lâm Tự (Shaolin Temple)
- 1990: Hoàng Phi Hồng (Once Upon a Time in China)
- 1991: Hoàng Phi Hồng 2 (Once Upon a Time in China 2)
- 1992: Sư phụ (The master)
- 1993: Hoàng Phi Hồng 3 (Once Upon a Time in China 3)
- 1993: Phương Thế Ngọc (phim) (The Legend of Fong Sai-Yuk)
- 1993: Phương Thế Ngọc 2 (The Legend of Fong Sai-Yuk II)
- 1994: Thái Cực quyền (The Tai Chi Master)
- 1994: Bộ Công phu Lý Liên Kiệt gồm:
- Tân tuyền thuyết Thiếu Lâm (The New Legend of Shaolin)
- Cận vệ trung Nam Hải (The Bodyguard from Beijing)
- Tinh Võ Anh hùng (Fist of Legend)
- 2000: Romeo phải chết (Romeo Must Die)
- 2001: Nụ hôn của rồng (Kiss of the Dragon)
- 2001: Đấu đến chết (The One)
- 2001–2002: Anh hùng (Hero)
- 2002: Đấu đến chết 2 (Cradle 2 the Grave)
- 2006: Hoắc Nguyên Giáp (Huo Yuen Gap)
- 2006: Trận Chiến Xích Bích
- ...
[sửa] Xem thêm
- Lý Tiểu Long
- Chung Tử Đơn
- Thành Long