Người Bru - Vân Kiều
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Trì chuyển hướng về đây, xem thêm các nghĩa từ vựng tại mục từ trì trong từ điển mở Wiktionary.
|
|
Tên gọi khác: | Bru, Vân Kiều, Mang Cong, Trì, Khùa |
Dân số: | 40.000 |
Phân bố: | miền núi của Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế |
Ngôn ngữ | tiếng Bru thuộc nhóm Môn Khmer |
Tín ngưỡng | ? |
Dân tộc gần | ? |
Trang phục nữ |
Người Bru - Vân Kiều (còn gọi là Bru, Vân Kiều, Mang Cong, Trì, Khùa) là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam, với dân số khoảng 40.000 người, sống tập trung ở miền núi của Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Thực tế các tên gọi Vân Kiều, Măng Coong, Trì, Khùa, Bru dùng để chỉ các nhóm khác nhau trong tộc người này.
Tộc người này có truyền thống làm rẫy và làm ruộng, cùng với hái lượm săn bắn và đánh cá. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm dành chủ yếu cho các lễ cúng hơn là cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công của dân tộc này chỉ có đan chiếu lá, gùi. Văn hóa của người Bru-Vân Kiều đặc sắc, thể hiện ở phong tục hôn nhân, nghệ thuật âm nhạc truyền thống, ở kiến trúc và trang phục, như miêu tả chi tiết dưới đây.
Mục lục |
[sửa] Văn hóa
[sửa] Hôn nhân
Trong phong tục đám cưới của người Bru-Vân Kiều, nhà trai trao cho nhà gái một thanh kiếm. Cô dâu khi về nhà chồng thường trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc bếp, rửa chân... Trong họ hàng, ông cậu có quyền quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà, cúng bái của các cháu.
[sửa] Âm nhạc
Nhạc cụ truyền thống Bru-Vân Kiều có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua...). Dân ca của dân tộc này có nhiều làn điệu như "chà chấp", lối vừa hát vừa kể rất phổ biến, hay "sim", hình thức hát nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các loại của người Bru-Vân Kiều rất phong phú.
[sửa] Kiến trúc
Người Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhỏ, phù hợp với quy mô gia đình thường gồm cha, mẹ và các con chưa lập gia đình riêng. Nếu ở gần bờ sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dọc theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay, người Bru-Vân Kiều ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.
[sửa] Trang phục
Nam giới Bru-Vân Kiều để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây, họ thường lấy vỏ cây sui làm khố, áo.
Phụ nữ Bru-Vân Kiều mặc áo và váy. Áo nữ có đặc điểm xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc hình vuông. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang. Gái chưa chồng búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ Bru-Vân Kiều ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thường qua gối 20 đến 25 cm.
Có nhóm nữ Bru-Vân Kiều đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ đeo hạt cườm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các "đồng tiền" bạc nhỏ màu sáng, nổi bật trên nền chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.
[sửa] Liên kết ngoài
- Bài này được thu thập từ nguồn thuộc phạm vi công cộng ở trang chủ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
54 dân tộc Việt Nam (xếp theo nhóm ngôn ngữ) | |||||||||||||||||||
|