Ebooks, Audobooks and Classical Music from Liber Liber
a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z





Web - Amazon

We provide Linux to the World


We support WINRAR [What is this] - [Download .exe file(s) for Windows]

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
SITEMAP
Audiobooks by Valerio Di Stefano: Single Download - Complete Download [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Alphabetical Download  [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Download Instructions

Make a donation: IBAN: IT36M0708677020000000008016 - BIC/SWIFT:  ICRAITRRU60 - VALERIO DI STEFANO or
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
H'Mông – Wikipedia tiếng Việt

H'Mông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Người H'Mông, còn gọi là người Hmông, người Mông, người Hơ-mông, người Miêu (ở Trung Quốc), người Mèo (ở Việt Nam), người Mẹo (ở Lào) (tiếng Trung Quốc: 苗 Miáo; tiếng Thái: แม้ว Maew hay ม้ง Mông), là một dân tộc ở châu Á nói tiếng H'Mông; quê hương của họ là những vùng núi cao ở phía nam Trung Quốc (đặc biệt là Quý Châu) cũng như các khu vực miền bắc của Đông Nam Á (bắc Việt NamLào). Thuật ngữ "Miêu" ("Mèo" hay "Mẹo") là một từ ngữ xúc phạm đối với một số người H'Mông. Ngày nay, họ tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ 5 trong số 56 dân tộc được chính thức công nhận ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và cũng là một trong 54 dân tộc Việt Nam.

Cờ của người H'Mông
Cờ của người H'Mông

Mục lục

[sửa] Danh pháp: Miêu và Hmông

Hai thuật ngữ, "Miêu" và "Hmông" ("Mèo" và "H'Mông" tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng TâyHồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu. Ngoài phạm vi Trung Quốc họ còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gọi là Lào Sủng), Việt NamMyanma do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guyane thuộc Pháp, PhápÚc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu. Tại Việt Nam, có khoảng trên 780.000 người H'Mông. Nhóm ngôn ngữ này bao gồm 3 thứ tiếng và 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được, cùng với tiếng Bunu thuộc về nhánh Miêu trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (hay hệ Miêu-Dao).

Các nhà nghiên cứu phương Tây xử lý vấn đề thuật ngữ này không thống nhất. Những người đầu tiên sử dụng tên gọi theo kiểu Trung Hoa trong một loạt các phiên âm: Miao, Meau, Meo, Mo, Miao-tse, Miao-tsze, Miao-tseu (Miêu tộc) v.v. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của người H'Mông ở Lào (một phân nhóm của người Miêu) một số nhà nghiên cứu đương đại đã chấp nhận thuật ngữ khác là "H'Mông".

Bản thân người Miêu thì sử dụng hàng loạt các tên tự gọi khác và người Trung Quốc thông thường phân loại họ theo màu sắc chủ yếu đặc trưng nhất của phụ nữ Miêu. Danh sách dưới đây liệt kê các tên tự gọi, tên gọi màu sắc và khu vực chính mà 4 nhóm chính của người Miêu sinh sống tại Trung Quốc:

Người H'Mông Hoa trong quần áo truyền thống tại chợ Bắc Hà, Việt Nam
Người H'Mông Hoa trong quần áo truyền thống tại chợ Bắc Hà, Việt Nam

Chỉ có nhóm thứ tư sử dụng thuật ngữ "Hmông" (hay "H'Mông"). Ngoài ra, chỉ có người Hmông (và một số Hmu) có người sinh sống ngoài phạm vi Trung Quốc. Những người Hmông phi Trung Quốc này cho rằng thuật ngữ "Hmông" không chỉ để nói tới nhóm thổ ngữ của họ, mà còn là để chỉ các nhóm khác sống tại Trung Quốc. Nói chung, họ cho rằng thuật ngữ "Miao" (hay "Miêu") là một thuật ngữ xúc phạm và không nên sử dụng nó. Thay vì điều này thuật ngữ "Hmông" được sử dụng để chỉ mọi nhóm người thuộc dân tộc này. Tuy nhiên, điều này có thể là kết quả của sự nhầm lẫn biểu hiện và ý nghĩa của từ. Các nhà thám hiểm và xâm lược Trung Hoa đặt cho người Hmông tên gọi "Miao" (hay "Miêu"), sau đó trở thành "Meo" (Mèo) và "Man" (Mán). Thuật ngữ sau để chỉ những kẻ "man di, mọi rợ ở miền nam". Từ "miêu" cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác của khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, Lào, Thái v.v. trong dạng "Meo" (tức là "Mèo"). Mặc dù rất nhiều người nói các thứ tiếng này (và cả người Trung Quốc) không nghi ngờ gì khi cho rằng "Miêu" là những kẻ man di, nhưng điều này không có cách gì để chứng minh từ này có nghĩa như vậy. Có thể những người nói tiếng Việt, Lào, Thái đã lấy từ "miao" (miêu) từ tiếng Trung Hoa, nhưng đã bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy của nó là "cây giống" và sử dụng nó chỉ để gọi những người mà họ cho là man rợ. Nó được phát âm với giọng sai trong tiếng Thái hay với giọng cao trong tiếng Hán Quảng Đông thì có ý nghĩa là "mèo" (đây là khả năng của nguồn gốc tượng thanh). Trong cách dịch của người Việt các từ Hán-Việt thì "miêu" cũng là "mèo". Điều này giải thích tại sao lại có sự phản đối quyết liệt như vậy chống lại thuật ngữ "miêu" trong các nhóm người Hmông tại khu vực Đông Nam Á.

Tại Trung Quốc, tình hình lại khác hẳn vì hai nguyên nhân chính. Các nhóm người Miêu có các tên tự gọi khác hẳn và chỉ một số rất ít sử dụng từ "Hmông". Những người còn lại thì không có ý kiến gì khi cho rằng "Hmông" là thích hợp hơn so với "Miêu" trong vai trò của tên gọi chung. Kể từ khi có phân loại chính thức các dân tộc thiểu số trong thập niên 1950 một số dân tộc thiểu số đã khiếu nại về từ ngữ được sử dụng ở Trung Quốc để gọi tên dân tộc họ và đã đề nghị chính quyền thay đổi cách sử dụng chính thức. Nhóm người Miêu ở Trung Quốc, theo bài báo năm 1992 trong Dự án bản tin Thái-Vân Nam [TYPN 1992], đã không có khiếu nại gì. Lý do thứ hai thuần túy là thực dụng: không có khả năng đưa từ "hmong" vào trong tiếng Trung do âm tiết của nó không tồn tại trong tiếng Trung. (Cũng giống như trong tiếng Anh là có rất ít người có khả năng phát âm các âm điếc giọng mũi). Tuy nhiên, trong tiếng Anh, không giống như tiếng Trung, người ta có khả năng viết được từ "Hmong".

Người Hmông viết tên gọi của dân tộc mình giống như "Hmoob". Hai nguyên âm chỉ ra rằng nó được phát âm giống như âm mũi, và một số phụ âm được sử dụng ở cuối của âm tiết để biểu thị giọng đọc. Vì thế từ America được viết giống như là Asmeslivkas trong tiếng Hmông.

Thuật ngữ "Hmông" được đề nghị như là tên gọi của các nhóm người Miêu nói thổ ngữ Hmông ở Trung Quốc và người Miêu ngoài Trung Quốc. Việc sử dụng từ này ngày nay đã được thiết lập vững chắc trong sách vở phương Tây. Rất nhiều người nhầm lẫn với tình trạng của các thuật ngữ hiện tại và không nhìn thấy mối liên quan giữa người Miêu và Hmông.

[sửa] Dân cư

Lưu ý: Khu vực người Miêu ở tỉnh Tứ Xuyên đã trở thành một phần của thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh mới thành lập năm 1997.

Phần lớn người Hmông hiện nay sống ở Trung Quốc. Số liệu về người Miêu ở Trung Quốc như sau:

  • 1953: 2.510.000
  • 1964: 2.780.000
  • 1982: 5.030.000
  • 1990: 7.390.000

3.600.000 người Miêu, khoảng một nửa số người Miêu Trung Quốc sống tại Quý Châu vào năm 1990. Người Miêu Quý Châu và những người sống ở sáu tỉnh sau chiếm trên 98% người Miêu Trung Quốc:

Trong các tỉnh trên, có 6 khu tự trị của người Miêu (chia sẻ một cách chính thức cùng với các dân tộc thiểu số khác):

  • Khu tự trị Kiềm Đông Nam người Miêu và Đồng (黔东南 Qiándōngnán), Quý Châu
  • Khu tự trị Kiềm Nam người Bố Y và Miêu (黔南 Qiánnán), Quý Châu
  • Khu tự trị Kiềm Tây Nam người Bố Y và Miêu (黔西南 Qiánxīnán), Quý Châu
  • Khu tự trị Tương Tây người Thổ Gia và Miêu (湘西 Xiāngxī), Hồ Nam
  • Khu tự trị Văn Sơn người Choang và Miêu (文山 Wénshān), Vân Nam
  • Khu tự trị Ân Thi người Thổ Gia và Miêu (恩施 Ēnshī), Hồ Bắc

Ngoài ra còn có thêm 23 huyện tự trị của người Miêu:

  • Hồ Nam: Ma Dương (麻阳 Máyáng), Tĩnh Châu (靖州 Jīngzhōu) và Thành Bộ (城步 Chéngbù)
  • Quý Châu: Tùng Đào (松桃 Sōngtáo), Ấn Giang (印江 Yìnjiāng), Vụ Xuyên (务川 Wùchuān), Đạo Chân (道真 Dǎozhēn), Trấn Ninh (镇宁 Zhènníng), Tử Vân (紫云 Zǐyún), Quan Lĩnh (关岭 Guānlíng) và Uy Ninh (威宁 Wēiníng)
  • Vân Nam: Bình Biên (屏边 Píngbiān), Kim Bình (金平 Jīnpíng) và Lộc Khuyến (禄劝 Lùquàn)
  • Tứ Xuyên: Tú Sơn (秀山 Xiùshān), Dậu Dương (酉阳 Yǒuyáng), Kiềm Giang (黔江 Qiánjiāng) và Bành Thủy (彭水 Péngshuǐ)
  • Quảng Tây: Dung Thủy (融水 Róngshuǐ), Long Thắng (龙胜 Lóngshēng) và Long Lâm (隆林 Lōnglín)
  • Hải Nam: Quỳnh Trung (琼中 Qióngzhōng) và Bảo Đình (保亭 Bǎotíng)

Phần lớn người Miêu sinh sống trên các dãy núi hay ngọn đồi, chẳng hạn

  • Núi Vũ Lăng (武陵 Wǔlíng) cạnh sông Tương Kiềm (湘黔川边的武陵山 Xiāngqián Chuān Biān Dí Wǔlíng Shān)
  • Núi Miêu (苗岭 Miáo Líng), Kiềm Đông Nam
  • Núi Nguyệt Lượng (月亮山 Yuèliàng Shān), Kiềm Đông Nam
  • Đại Tiểu Ma Sơn (大小麻山 Dà Xiǎo Má Shān), Kiềm Nam
  • Đại Miêu Sơn (大苗山 Dà Miáo Shān), Quảng Tây
  • Núi Ô Mông cạnh sông Điền Kiềm (滇黔川边的乌蒙山 Tiánqián Chuān Biān Dí Wūmēng Shān)

Vài nghìn người Miêu đã rời bỏ quê hương để chuyển sang sinh sống ở các thành phố lớn như Quảng Châu hay Bắc Kinh. Còn có khoảng 2.000.000 người Miêu sống ở các nước khác như Việt Nam, Lào, Myanma cũng như các quốc gia khác. Có khoảng 124.000 người sống ở Thái Lan, ở đây họ là một trong số 6 dân tộc chính sinh sống trên núi.

[sửa] Lịch sử

[sửa] Sơ kỳ

Người Hmông có lịch sử có lẽ từ cuối thời kỳ băng hà. Lịch sử sơ kỳ của họ có thể lần theo dấu vết của các câu truyện truyền khẩu và các lễ nghi an táng của họ.

Trong truyện truyền khẩu, truyền thuyết của người Hmông nói rằng họ đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, họ đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi trong một số ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn mà không có con chó của mình. Khi người thợ săn bắt đầu lên đường trở lại thì con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người Hmông cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt họ tới Trung Hoa.

Nơi thứ hai trong đó miêu tả người Hmông từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an táng "chỉ đường" của họ. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bỏ thế giới này để trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được miêu tả trong truyện truyền khẩu và nghi thức an táng của người Hmông chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.

[sửa] Tiếp xúc với người Hán

Tại Trung Quốc, vương quốc Hmông đầu tiên được ghi chép có tên gọi là Jiuli, và những người cai trị nó có tước hiệu là Chiyou (Xi Vưu) (trong tiếng Hoa) hay Txiv Yawg (trong tiếng H'Mông). "Xi Vưu" có nghĩa là "ông-cha", và là tước hiệu tương đương nhưng không ít quyền lực hơn hoàng đế. Các tổ tiên "Xi Vưu" được coi là dân tộc Liangzhu. Jiuli được cho là có quyền lực đối với 9 bộ tộc và 81 thị tộc.

[sửa] Lịch sử theo truyền thuyết Trung Quốc

Theo truyền thuyết Trung Hoa, bộ tộc của Xi Vưu (tiếng Hoa: 蚩尤, pinyin: Chīyoú) đã bị đánh bại ở Trác Lộc (tiếng Hoa: 涿鹿, pinyin: Zhuōlù; một địa danh cổ trên ranh giới tỉnh Hồ BắcLiêu Ninh ngày nay) bởi liên minh quân sự của Hoàng Đế (tiếng Hoa: 黃帝, pinyin: Huángdì) và Viêm Đế (Yandi), các thủ lĩnh của bộ tộc Hoa Hạ (tiếng Hoa: 華夏, pinyin: Huáxià) khi họ tranh giành quyền làm chủ lưu vực sông Hoàng Hà. La bàn được cho là lý do quyết định trong chiến thắng của người Hoa Hạ. Trận đánh này, được cho là diễn ra vào thế kỷ 26 TCN, đã diễn ra dưới điều kiện thời tiết mù sương và người Hoa Hạ đã có thể chiến thắng tổ tiên của người Miêu là nhờ có la bàn.

Sau thất bại, bộ tộc ban đầu của người Miêu được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu (tiếng Hoa: 黎, pinyin: ). Người Miêu tiếp tục di chuyển về phía tây nam còn người Lý về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ "man di" do sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN).

Có một phiên bản khác của thời kỳ hậu-Jiuli, người dân của Jiuli chia thành 3 nhóm đi theo 3 hướng khác nhau. Người ta nói rằng Xi Vưu có 3 con trai, và sau khi Jiuli thất thủ thì con trai cả của ông dẫn một số người về phía nam, con trai thứ dẫn một số người về phía bắc còn người con trai út ở lại Trác Lộc và đã bị đồng hóa theo văn hóa Hoa Hạ. Những người đi về phía nam thành lập ra nhà nước San-Miêu. Có lẽ vì sự phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nên rất nhiều dân tộc ở Viễn Đông coi Xi Vưu là tổ tiên của mình, và vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra về bộ tộc thực sự của Xi Vưu cũng giống như của người Hmông hay các dân tộc khác. Ví dụ, người Triều Tiên cũng cho Xi Vưu là tổ tiên của mình. Ngoài ra, theo chính sách hợp nhất các bộ tộc hiện nay của Trung Quốc, Xi Vưu được nhắc đến như là một trong những tổ tiên của người Trung Hoa cùng với các tổ tiên của người Hán là Hoàng Đế và Viêm Đế.

[sửa] Ghi chú

Có tài liệu cho rằng không phải là Viêm Đế (Đế Viêm) mà là Đế Du Võng (cháu 6 đời của Đế Viêm (Thần Nông) mới lập liên minh với Hiên Viên (sau này là Hoàng Đế) để chống lại Xi Vưu (Xuy Vưu)). Cụ thể như sau: Viêm Đế (Thần Nông)->??->Đế Minh->Đế Nghi->Đế Lai->Đế Du Võng, như vậy theo Lĩnh Nam chích quái thì Đế Du Võng là cháu gọi Lạc Long Quân là chú do Đế Minh còn sinh ra Lộc Tục và Lộc Tục sinh ra Lạc Long Quân.

[sửa] Các thời kỳ nhà Tần/Hán

Thuật ngữ "Miêu" lần đầu tiên được sử dụng bởi người Hoa vào thời kỳ tiền Tần, tức là trước năm 221 TCN, để chỉ các nhóm bộ tộc không phải là người Hoa ở phương nam. Nó thông thường được sử dụng trong các tổ hợp như "nanmiao", "miaomin", "youmiao" và "sanmiao" (三苗 Sānmiáo). Vào thời kỳ đó, những bộ tộc này sống ở phía nam sông Trường Giang, nhưng sau đó đã bị người Hoa đẩy lui xa hơn nữa về phía nam. Do phần lớn lãnh thổ của sáu triều vua (Đông Ngô, Đông Tấn, tiền Tống, Tề, Lương, Trần) nằm ở phía nam sông này, việc khuất phục người Miêu đã là mối quan tâm chính để đảm bảo sự ổn định của các triều đại này. Với sự cướp bóc của Ngũ Hồ ở các khu vực phía bắc con sông này, nhiều người Hán đã di cư xuống phía nam càng tăng cường thêm việc đồng hóa người Miêu thành người Hán.

[sửa] Thời nhà Đường

Vào thời kỳ nhà Đường, người Miêu đã không còn là bộ tộc người chính không phải gốc Hán, ngoại trừ tại khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay, ở đó 6 chiếu (tiếng Hoa: 詔 có nghĩa là "vương quốc") của người Miêu. Một số học giả cho rằng 6 chiếu là các nhóm người Di (Yi) hay người Bạch (Bai). Vương quốc nằm phía nam nhất là chiếu Mông Xá (蒙舍詔 Méngshězhào) hay Nam Chiếu (南詔 Nánzhào) thống nhất cả 6 chiếu để thành lập quốc gia độc lập trong đầu thế kỷ 8 với sự hỗ trợ từ phía nhà Đường. Tước hiệu của người đứng đầu nhà nước này là Nam Chiếu Vương (南詔王 Nánzhàowáng), có nghĩa là Vua của Nam Chiếu. Lo ngại về sự đe dọa ngày càng tăng từ phía Thổ Phồn (ngày nay là Tây Tạng) đã thúc đẩy triều đình Trung Quốc thiết lập một quan hệ hữu nghị với cả hai nước này. Nhà Đường cũng triển khai một khu vực quân sự, là Kiến Nam tiết sứ (劍南節度 Jiànnán Jiédǔ) nằm ở khu vực ngày nay là phía nam tỉnh Tứ Xuyên và giáp biên giới với Nam Chiếu.

[sửa] Nam Chiếu

Trong khoảng vài chục năm hòa bình đầu tiên ở thế kỷ 8, Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua người đứng đầu quân sự trong khu vực quân sự này, Kiến Nam tiết độ sứ (劍南節度使 Jiànnán Jiédǔshǐ), tới triều đình của người Hán. Khi nhà Đường suy yếu trong thời gian giữa thế kỷ 8, khu này đã có nhiều quyền tự do hơn. Họ đã yêu cầu các bộ tộc sống ở Nam Chiếu phát triển lực lượng quân sự để chống lại nhà Đường. Những người cai trị Nam Chiếu là những người nói tiếng Tây Tạng-Miến Điện, nhưng dân chúng thì có thể có cả tổ tiên của dân tộc Hmông ngày nay. Các thủ lĩnh quân sự Trung Hoa có những sự hăm dọa và yêu sách quá đáng. Một ví dụ là sự từ chối yêu cầu cho ngủ một đêm với hoàng hậu, vợ duy nhất của vua Nam Chiếu. Tất cả những yêu sách quá đáng đó cũng như đồ cống nộp nặng nề đã làm nổ ra cuộc nổi loạn của người Nam Chiếu trong niên biểu Thiên Bảo (742-756) của Đường Huyền Tông (hay Đường Minh Hoàng). Trước khi hành quân chống lại thủ lĩnh khu quân sự, vua Nam Chiếu đã cho khắc lý do của việc nổi dậy vào đá. Bia đá này ngày nay vẫn còn và có thể nhìn thấy (khu vực?). Nhà Đường lẽ ra có thể dễ dàng đánh bại quân Nam Chiếu nhưng sự tranh giành quyền lực trong các chỉ huy quân sự của khu này đã giúp cho quân Nam Chiếu tiến sâu vào lãnh thổ nhà Đường, gần như đã tới Thành Đô, thủ phủ của khu Kiến Nam. Việc bổ nhiệm các chức vụ cầm quyền bất tài cũng là một yếu tố. Nổi tiếng nhất là trường hợp của Dương Quốc Trung, anh trai của Dương Quý Phi (thiếp yêu của vua Đường). Mặc dù cuối cùng thì cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan, nhưng nhà Đường cũng đã hoang phí những nguồn lực quý báu lẽ ra có thể sử dụng để bảo vệ biên giới phía bắc, điều đã dẫn tới cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn gây ra nhiều thảm họa hơn.

Văn hóa truyền thống của người H'mông đen tại Việt Nam đã dần biến mất do ảnh hưởng của du lịch
Văn hóa truyền thống của người H'mông đen tại Việt Nam đã dần biến mất do ảnh hưởng của du lịch

Trong những năm sau đó, Nam Chiếu luôn có ưu thế trong quan hệ với nhà Đường và Thổ Phồn do cả hai nước này đều muốn liên minh với họ để cô lập kẻ thù của mình. Nam Chiếu đã tận dụng được cơ hội này và nhanh chóng phát triển thành một thế lực ở khu vực đông nam châu Á. Trong thời kỳ đỉnh cao của nó, các phần phía bắc của Việt Nam, Lào, Thái LanMiến Điện, Quảng Tây và phần phía đông của Quảng Đông, tây nam của Tứ Xuyên, Quý Châu và toàn bộ tỉnh Vân Nam ngày nay đều nằm dưới sự kiểm soát của họ. Thành ĐôĐại La (Hà Nội ngày nay) đều bị cướp phá hai lần.

Nam Chiếu dưới ảnh hưởng của nhà Đường trong các thế kỷ 8-9 đã dần dần chấp nhận văn hóa Trung Hoa cũng như trong thời gian đó đã xuất hiện mâu thuẫn nội bộ giữa các thị tộc đối địch. Cuối cùng họ Đoàn (段 duan4) đã thắng và thành lập Vương quốc Đại Lý. Trong thời nhà Đường và nhà Tống thuật ngữ "nam man" (南蠻 Nánmán, có nghĩa là "những kẻ man di phương nam không phải người Hán") đã được sử dụng. Tuy nhiên, tên gọi "miêu" vẫn được dùng để miêu tả một số dân tộc ở phương nam trong các sách của Phàn Xước (Fan Chuo) về các bộ tộc miền nam là Manshu (tức Man thư - viết năm 862).

[sửa] Thời nhà Minh và nhà Thanh

Trong thời nhà Minhnhà Thanh (1368-1911) "miao" và "man" (mán) đã được sử dụng đồng thời, từ thứ hai có lẽ là để gọi dân tộc Dao (傜 Yáo). Nhà Nguyên, Minh và Thanh chưa bao giờ đồng hóa hay kiểm soát chặt chẽ được các bộ tộc thiểu số. Kết quả là chính sách "dùng người man quản lý người man" (yiyi zhiyi) đã được thực thi. Ngoài ra, bức tường bản sao của Vạn Lý Trường Thành ở miền nam đã được dựng lên để bảo vệ và phân chia người Hán với những kẻ "man rợ miền nam". Về mặt chính trị và quân sự thì người Miêu vẫn tiếp tục là viên sỏi trong chiếc giày của đế chế Trung Hoa. Người Miêu đã có nhiều trận chiến chống lại người Hán. Người Hán đã sử dụng các biện pháp chính trị để lừa gạt người Miêu, họ tạo ra nhiều chức vụ với quyền lực thực sự cho người Miêu để lôi cuốn và đồng hóa người Miêu vào hệ thống chính quyền Trung Hoa. Trong thời nhà Minh và Thanh, các chức vụ chính thức như Kaitong (cai tổng) đã được tạo ra tại khu vực Đông Dương. Người Hmông có thể tham gia vào các chức vụ này cho đến những năm thập niên 1900, khi họ phải tham dự vào hệ thống chính trị thuộc địa của Pháp tại Đông Dương.

[sửa] Người Hmông ở Lào

Trong năm 1960, nhiều người Hmông tại Lào được Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) tuyển dụng như là một phần của kế hoạch để chiến đấu và bảo vệ Lào chống lại quân đội Bắc Việt có số lượng đông và kỷ luật chặt chẽ hơn so với những người cộng sản của phong trào Pathet Lào tại nước này. Hoạt động của Pathet Lào được sử dụng để che đậy các hoạt động thâm nhập của quân đội Bắc Việt. Trên thực tế, quân đội các bộ tộc Lào của chính quyền hoàng gia Lào và của Pathet Lao chỉ tham gia có giới hạn trong các cuộc giao tranh, phần lớn các cuộc chiến diễn ra giữa người Hmông có sự hậu thuẫn của CIA và quân đội Bắc Việt. Một đội quân tương đương về số lượng người Hmông cũng đã được Pathet Lào tuyển dụng để chống lại chính quyền hoàng gia Lào và CIA.

Tướng Vàng Pao là một thủ lĩnh người Hmông được CIA nâng đỡ để chỉ huy Quân khu II ở miền bắc (MR2) chống lại sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt. Chỉ huy sở của Vàng Pao nằm ở Long Chẹng, còn được biết trong tiếng Anh như là Lima Site 20 Alternate (LS 20A). Do các hoạt động quân sự tích cực ở đây, Long Chẹng đã trở thành thành phố lớn thứ hai tại Lào, với dân số lên tới 300.000, trong đó có 200.000 người Hmông. Long Chẹng khi đó có thể coi như là một tiểu quốc gia do nó có hệ thống ngân hàng, sân bay, trường học, quân đội, viên chức riêng cũng như nhiều cơ sở hạ tầng và dịch vụ khác nữa. Trước khi kết thúc Cuộc chiến Bí mật, Long Chẹng đã nằm trong tầm kiểm soát của Vàng Pao.

Trong những năm 1990, rất nhiều người H'Mông hoa đã chuyển từ quần áo truyền thống sặc sỡ sang quần áo kiểu Âu hóa
Trong những năm 1990, rất nhiều người H'Mông hoa đã chuyển từ quần áo truyền thống sặc sỡ sang quần áo kiểu Âu hóa

Cuộc chiến Bí mật đã diễn ra trùng với thời gian mà Mỹ chính thức tham gia vào Chiến tranh Việt Nam. Cuối cùng khi Mỹ rút khỏi Việt Nam thì tướng Vàng Pao cũng di tản sang Thái Lan. Nhiều người đã hỗ trợ Mỹ trong Cuộc chiến Bí mật đã cảm thấy không an toàn trong môi trường mới. Khoảng 300.000 người Hmông đã chạy sang Thái Lan, tạo ra các trại tị nạn. Đối với những người Hmông còn ở lại thì các cuộc chiến dữ dội vẫn còn tiếp diễn dưới sự chỉ huy của nhóm Chao Fa. Nhóm này có tham vọng lớn, bao gồm cả việc thiết lập một quốc gia có chủ quyền cho người Hmông. Tuy nhiên, do không có sự hỗ trợ về tài chính và quân đội, Chao Fa đã phải từ bỏ tham vọng của mình.

Trong những năm 1990, Liên hiệp quốc, với sự hỗ trợ từ phía chính quyền Clinton, bắt đầu công việc đưa người Hmông tị nạn trở lại Lào một cách bắt buộc. Quyết định này gây ra nhiều tranh cãi, do nhiều người Hmông nói rằng họ đã bị ngược đãi bởi chính quyền Lào khi họ trở về. Tuy nhiên, điều này cần kiểm chứng lại.

Việc đưa người Hmông tị nạn trở lại Lào đã bị chống đối ác liệt từ phía những người Mỹ bảo thủ và những người hoạt động nhân quyền. Năm 1995, tạp chí National Review có bài báo, ví dụ của Michael Johns cho rằng quyết định này là một sự "phản bội"[1].

Áp lực lên chính quyền Clinton đã làm thay đổi chính sách hồi hương của họ, là một thắng lợi chính trị đáng kể của người Hmông, phần lớn người Hmông tị nạn cuối cùng đã được định cư ở các nước khác, nhiều người trong số họ đã đến Mỹ. Cuộc định cư lớn cuối cùng khoảng 15.000 người Hmông từ trại Wat Tham Krabok diễn ra năm 2004.

Một bộ phận đáng kể người Hmông vẫn còn theo các lối sống truyền thống ở miền tây bắc Việt Nam. Với sự gia tăng của du lịch vào các khu vực này trong những năm 1990 đã giới thiệu cho nhiều người H'mông lối sống phương Tây, và trang phục truyền thống của người H'mông đang dần dần biến mất.

Một số người theo học thuyết sáng tạo tin rằng người Miautso (Hmông) là hậu duệ của các giáo trưởng trong kinh thánh, vì tên gọi của các vị vua của người Miautso theo dòng dõi nghe tương tự như tên của các vị chúa trong kinh thánh, và cũng theo đúng trật tự đó. Ví dụ: Se-teh = Seth, Lama = Lamech, Nuah = Noah, v.v.

[sửa] Người Hmông ở Việt Nam

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân hơn 80 vạn người, dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số có số lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...

Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc Mông ra làm các ngành: Mông Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhx), Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen (Môngz Đuz), Mông Xanh (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước). Trong đó, cũng có ý kiến cho rằng Mông Hoa và Mông Đỏ là một.

Tiếng Mông là một ngôn ngữ không có chữ viết. Năm 1961 phương án chữ Mông theo tự dạng Latin đã được chính phủ Việt Nam phê chuẩn (cụ thể bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm ngành Mông Lềnh Sa Pa — Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành Mông khác, gồm 59 phụ âm (có 3 âm vị phụ âm của ngành Mông Đơư và Mông Sua), 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào học chữ Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nơi có nhiều người Mông sinh sống. Nhưng đến nay với nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình học chữ Mông đã không còn phát triển như trước kia nữa.

Ngoài Việt Nam ra, các cư dân Mông còn cư trú ở một địa bàn khá rộng lớn thuộc phía Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện, và đặc biệt sau năm 1975 cộng đồng người Mông di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng 100.000 người (chủ yếu di cư từ Lào). Trong các quốc gia kể trên, Trung Quốc có số lượng người Mông đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu thống kê 1990) phân bố ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải NamHồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân tộc Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi. Trên thực tế cho thấy các cư dân Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với các cư dân đồng tộc ở các nưóc khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào.

Cho đến nay chúng ta đều biết đến tiếng Mông là một ngôn ngữ nằm trong hệ ngôn ngữ Miao-Yao (hay Mông-Mien). Nhưng trên thực tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ Mông thuộc nhánh Miao-Yao trong hệ ngôn ngữ Hán-Tạng (trong đó phải kể đến các nhà khoa học Trung Quốc). Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K. Benedict với quan điểm quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng và Nam-Thái (Austro-Thai). Trong đó vị trí các ngôn ngữ Miao-Yao được định vị trong hệ Nam Thái.

Còn André G. Haudricourt từng bước đem so sánh cả hệ thống thanh điệu và cả lớp từ vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ Miao-Yao với các ngôn ngữ Hán-Tạng và Nam Á. Ông đã cho rằng "các ngôn ngữ Miao-Yao hình như tạo nên mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Tạng-Miến". Đây cũng chính là cơ sở để một hướng các nhà ngôn ngữ sau này không xếp các ngôn ngữ Miao-Yao vào Nam Á hay Hán-Tạng mà là một họ ngôn ngữ độc lập vì những kiến giải của Haudricourt "không thuần tuý là sự so sánh từ vựng mà là sự phục nguyên, một thao tác thể hiện tính quy luật của những chuyển đổi âm thanh". Kế thừa những nghiên cứu đi trước, Martha Ratliff đã đưa ra một bảng phân loại các ngôn ngữ Mông-Miến (hay Miao-Yao) khá chi tiết trong đó tác giả đã định vị ngành Mông trắng (Mông Đơư) như sau:

  • Hệ ngôn ngữ (language family): Mông-Miến (Hmong-Mien)
  • Nhóm ngôn ngữ: Mông (Hmongic)
  • Nhánh: thuộc các phương ngôn Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam (Sichuan - Quizhou - Yunnan), còn gọi là nhánh Mông phía Tây (West Hmongic branch)
  • Tiểu nhánh: Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam
  • Phương ngữ: Mông trắng (White Mông)

Trong cuốn từ điển Bách khoa thư ngôn ngữ đã phân các ngôn ngữ Hmong-Mien (hay Miao-Yao) thành hai nhánh chính:

  • Mông - gồm có: Dananshan Hmong, Hmong Đông, Hmong Bắc, Hmong Tây, Hmong Daw, Hmong Njua, Miao Đỏ, Pa Heng, Punu
  • Mien (hay Dao) - gồm có: Ba Pai, Mien, Biao Mien, Iu mien, Mun, She

ở đây Mông Leng (Mông Lềnh) được xác định như một tên gọi khác của ngành Mông Njua (Mông Xanh) nằm trong nhánh Mông.

Như vậy, hệ ngôn ngữ Miao-Yao (Mông-Miền) ở Việt Nam có thể được sơ đồ hoá cùng với các ngôn ngữ thành viên như sau:

[sửa] Người Hmông ở Mỹ

Bài chính: người Mỹ gốc Hmông

Tại Hoa Kỳ, nhiều người Hmông là những người tị nạn từ Lào cũng như ra đi sau Chiến tranh Việt Nam tới Mỹ. Bắt đầu vào năm 1976, những người Hmông tị nạn đầu tiên đã tới Mỹ, chủ yếu từ các trại tị nạn nằm trên đất Thái Lan.

Ngày nay, phần chủ yếu của người Hmông ở Mỹ (khoảng 270.000) sống ở California, MinnesotaWisconsin. Fresno, Minneapolis-St. Paul, Madison và Milwaukee có mật độ tập trung cao của người Hmông.

Điều tra dân số Mỹ năm 2000 cho thấy chỉ có 40% người Hmông trên 24 tuổi đã từng học trung học. Khoảng 7% người Hmông có bằng cử nhân hoặc cao hơn. Tỷ lệ cao của thất học là do nhiều người Hmông chủ yếu có nguồn gốc là nông dân, họ ít có cơ hội tiếp thụ nền giáo dục tại Lào khi sinh sống trên núi đồi. Ngoài ra, khoảng 40% các gia đình Hmông nằm dưới mức nghèo khổ. Mặc dù họ vẫn là một trong số những dân tộc châu Á nghèo khổ nhất tại Mỹ, rất nhiều trẻ em thế hệ hai đã chiếm các vị trí cao trong nhiều trường học khi so sánh với các nhóm thiểu số thu nhập thấp khác. Trẻ em Mỹ gốc Hmông sinh ra tại Mỹ thông thường có nhiều cơ hội tiếp thu giáo dục hơn so với cha mẹ của chúng và vì thế có nhiều cơ hội kinh tế hơn so với cha mẹ chúng có thể có được ở Lào. Mặc dù người Hmông thông thường có xu hướng làm những công việc có thu nhập thấp (hay là do phân biệt chủng tộc?), nhiều người trong số họ là rất chuyên nghiệp.

Tại nhiều thành phố lớn ở đó người Mỹ gốc Hmông sống và làm việc thì các bất hòa đã diễn ra giữa người Hmông và các nhóm thiểu số khác. Người Hmông thông thường là mục tiêu của sự phân biệt chủng tộc, chủ yếu là do sự cạnh tranh trong công việc và bản chất của người Hmông như là những người phụ thuộc vào trợ cấp. Nhiều kẻ ngược đãi họ bào chữa cho hành động của mình là do người Hmông đã lấy mất công việc, trợ cấp và các dịch vụ khác của những người định cư lâu đời ở đó. [2]

Mặc dù nhiều gia đình Hmông nói bằng ngôn ngữ không phải là tiếng Anh tại nhà họ, nhưng nhiều người Mỹ gốc Hmông đã nhanh chóng thích nghi với xã hội Mỹ và rất nhiều người trẻ tuổi đã đánh mất các bản sắc văn hóa truyền thống của mình rất nhanh. Vì điều này, cộng đồng Hmông đã thành lập hiệp hội và phương tiện thông tin riêng để cổ vũ người Hmông giữ gìn văn hóa và ngôn ngữ của họ.

[sửa] Xem thêm

[sửa] Tham chiếu

  • Fadiman, Anne (1997). The Spirit Catches You and You Fall Down : a Hmong Child, Her American Doctors, and the Collision of Two Cultures. Farrar, Straus and Giroux. ISBN 0-37-426781-2.
  • [TYPN 1992] The section on nomenclature draws heavily on Thai-Yunnan Project Newsletter, Number 17, June 1992, Department of Anthropology, Australian National University. Material from that newsletter may be freely reproduced with due acknowledgement.
  • W.R. Geddes. Migrants of the Mountains : The Cultural Ecology of the Blue Miao (Hmong Njua) of Thailand. Oxford. The Clarendon Press. 1976.

[sửa] Liên kết ngoài


54 dân tộc Việt Nam (xếp theo nhóm ngôn ngữ) Việt Nam
Nhóm Việt–Mường: Chứt | Mường | Thổ | Việt (Kinh)
Nhóm Tày–Thái: Bố Y | Giáy | Lào | Lự | Nùng | Sán Chay | Tày | Thái
Nhóm Môn–Khmer: Ba Na | Brâu | Bru - Vân Kiều | Chơ-ro | Co | Cơ-ho | Cơ-tu | Giẻ-triêng | Hrê | Kháng | Khmer | Khơ-mú | Mạ | Mảng | M'Nông | Ơ-đu | Rơ-măm | Tà-Ôi | Xinh-mun | Xơ-đăng | Xtiêng
Nhóm H'Mông–Dao: Dao | H'Mông | Pà Thẻn
Nhóm Kadai: Cờ lao | La-chí | La ha | Pu péo
Nhóm Nam đảo: Chăm | Chu-ru | Ê-đê | Gia-rai | Ra-glai
Nhóm Hán: Hoa | Ngái | Sán dìu
Nhóm Tạng: Cống | Hà Nhì | La Hủ | Lô Lô | Phù Lá | Si La


56 dân tộc Trung Quốc (theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa)

A Xương - Bạch - Bảo An - Bố Lãng - Bố Y - Cảnh Pha - Cao Sơn - Cáp Nê - Choang - Cơ Nặc - Dao - Đạt Oát Nhĩ - Di - Độc Long - Đồng - Đông Hương - Đức Ngang - Dụ Cố - Duy Ngô Nhĩ - Hách Triết - Hán - Miêu - Hồi - Kazak - Kirgiz - Khương - Kinh - Lạc Ba - Lạp Hộ - Lật Túc - Lê - Mãn - Mao Nam - Môn Ba - Mông Cổ - Mục Lao - Nạp Tây - Nga - Ngạc Luân Xuân - Ngạc Ôn Khắc - Ngật Lão - Ngõa - Nộ - Uzbek - Phổ Mễ - Tát Lạp - Tây Tạng - Thái - Tajik - Tatar - Thổ - Thổ Gia - Thủy - Tích Bá - Triều Tiên - không được phân loại

Our "Network":

Project Gutenberg
https://gutenberg.classicistranieri.com

Encyclopaedia Britannica 1911
https://encyclopaediabritannica.classicistranieri.com

Librivox Audiobooks
https://librivox.classicistranieri.com

Linux Distributions
https://old.classicistranieri.com

Magnatune (MP3 Music)
https://magnatune.classicistranieri.com

Static Wikipedia (June 2008)
https://wikipedia.classicistranieri.com

Static Wikipedia (March 2008)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com/mar2008/

Static Wikipedia (2007)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com

Static Wikipedia (2006)
https://wikipedia2006.classicistranieri.com

Liber Liber
https://liberliber.classicistranieri.com

ZIM Files for Kiwix
https://zim.classicistranieri.com


Other Websites:

Bach - Goldberg Variations
https://www.goldbergvariations.org

Lazarillo de Tormes
https://www.lazarillodetormes.org

Madame Bovary
https://www.madamebovary.org

Il Fu Mattia Pascal
https://www.mattiapascal.it

The Voice in the Desert
https://www.thevoiceinthedesert.org

Confessione d'un amore fascista
https://www.amorefascista.it

Malinverno
https://www.malinverno.org

Debito formativo
https://www.debitoformativo.it

Adina Spire
https://www.adinaspire.com