Tê giác Sumatra
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tê giác Sumatra Tình trạng bảo tồn: Cực kỳ nguy cấp |
||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tê giác Sumatra |
||||||||||||||
Phân loại khoa học | ||||||||||||||
|
||||||||||||||
Tên khoa học | ||||||||||||||
Dicerorhinus sumatrensis (Fischer,, 1814) |
Tê giác Sumatra là loài tê giác hiện còn tồn tại có kích thước nhỏ nhất, cũng như là một trong số các loài có nhiều lông nhất. Giống như các loài châu Phi, chúng có hai sừng. Đã từng có thời chúng phổ biến rộng rãi ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay chỉ còn khoảng 300 cá thể. Chúng là loài đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp do săn bắn trộm, và các cố gắng nhằm phục hồi số lượng của chúng bằng cách nhân giống trong tình trạng bị giam cầm đã gặp rất nhiều khó khăn. Một trong số rất ít cố gắng đã đem lại thành công gần đây là một con tê giác cái đã được sinh ra vào ngày 30 tháng 7 năm 2004 tại vườn thú Cincinnati [1].
Có hai phân loài:
- Dicerorhinus sumatrensis harrissoni
- Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis
Tê giác Sumatra là loài sống sót cuối cùng trong cùng một nhóm với loài tê giác lông mịn đã tuyệt chủng.