Thông tin nhân khẩu học Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chính phủ Việt Nam công nhận có 54 nhóm dân tộc tại quốc gia này, trong đó người Việt là đông đảo nhất. Theo những con số chính thức của Việt Nam (điều tra dân số năm 1999), người Việt chiếm khoảng 86% dân số cả nước và sinh sống trên gần một nửa diện tích Việt Nam, trong khi những nhóm dân tộc thiểu số khác sống ở phần lớn đất đai còn lại, được coi là những vùng đất cằn cỗi nhất trong nước.
Mục lục |
[sửa] Nguồn gốc
Có nguồn gốc từ vùng đất hiện nằm ở phía nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam, người Việt đã tiến về phía nam trong tiến trình kéo dài hơn hai nghìn năm để chiếm lấy các vùng đất bờ biển phía đông bán đảo Đông Dương. Dân tộc Việt Nam, hay người Việt (thường được gọi chính xác là người Kinh), sống ở những vùng đất thấp và nói tiếng Việt. Nhóm dân tộc này chiếm ưu thế tuyệt đối về văn hoá và chính trị ở Việt Nam.
[sửa] Các dân tộc thiểu số
Theo số liệu thống kê năm 2000, Việt Nam có 54 dân tộc. Bên cạnh dân tộc đông nhất là Kinh chiếm 87% dân số, các dân tộc thiểu số đông dân nhất bao gồm:
- Tày (1.190.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, sống chủ yếu ở vùng núi phía Bắc.
- Thái (1.040.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An...
- Mường (914.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, sống chủ yếu tại tỉnh Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
- Hoa (900.000), người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam, sống tập trung đông nhất (50%) tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, 50% còn lại sinh sống ở các tỉnh trên toàn quốc, phần nhiều tại các tỉnh miền Tây Việt Nam.
- Khmer (895.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, sống chủ yếu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
- Nùng (706.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang.
- Hmông (558.000), có nguồn gốc từ phía nam Trung Quốc, thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
- Dao (474.000), thuộc hệ ngôn ngữ H'Mông-Dao, cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam.
- Giarai (242.000), thuộc nhóm Nam đảo, cư trú tập trung ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.
- Êđê (195.000), thuộc nhóm Nam đảo, cư trú tập trung ở Đắc Lắc, phía Nam Gia Lai và phía Tây hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên.
Những dân tộc còn lại có dân số dưới 100.000 người, một nửa trong số đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có khoảng vài trăm người.
[sửa] Ngôn ngữ
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của cả nước. Nó là một ngôn ngữ gắn liền với hệ ngôn ngữ Nam Á, những ngôn ngữ gần gũi cũng bao gồm tiêng Khmer, tiêng Môn, vân vân. Tiếng Việt được 65,8 triệu người Việt sử dụng theo cuộc điều tra dân số năm 1999. 1,6 triệu người nói tiếng Việt khác hiện sống bên ngoài Việt Nam. Vì thế tiếng Việt là ngôn ngữ có đông người sử dụng nhất trong hệ ngôn ngữ Nam Á, lớn gấp ba lần so với ngôn ngữ đứng thứ hai là tiêng Khmer. Tuy nhiên, hai ngôn ngữ này khác biệt nhau rất lớn: vì có ảnh hưởng từ tiếng Trung Quốc, tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ đa âm, trong khi tiếng Khmer vẫn là đơn âm. Tiếng Việt bị ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Trung Quốc và đa số từ tiếng Việt là có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc, trong khi tiếng Khmer lại có ảnh hưởng nhiều từ tiếng Phạn và tiêng Pali và phần lớn từ vựng của nó học từ các từ của các tiếng Ấn Độ. Từ đầu thế kỷ 20, tiếng Việt đã sử dụng hệ thống chữ viết Latin do người Pháp đặt ra. Trước đó, tiếng Việt dùng chữ Trung Quốc.
[sửa] Số liệu
Dân số: 83.689.518 (ước tính vào tháng 7, 2005)
Cơ cấu độ tuổi:
- 0-14 tuổi: 29,4% (nam 12.524.098; nữ 11.807.763)
- 15-64 tuổi: 65% (nam 26,475,156; nữ 27.239.543)
- trên 65 tuổi: 5,6% (nam 1,928,568; nữ 2.714.390)
(2004 ước tính)
Tỷ lệ tăng dân số: 1,3% (2004 ước tính)
Tỷ lệ sinh: 19,58 sinh/1,000 dân (2004 ước tính)
Tỷ lệ tử: 6,14 tử/1,000 dân (2004 ước tính)
Tỷ lệ di trú thực: -0,45 di dân/1.000 dân (2004 ước tính)
Tỷ lệ gới:
- khi sinh: 1,08 nam/nữ
- dưới 15 tuổi: 1,06 nam/nữ
- 15-64 tuổi: 0,97 nam/nữ
- trên 65 tuổi: 0,71 nam/nữ
- tổng dân số: 0,98 nam/nữ (2004 ước tính)
Tỷ lệ tử vong trẻ em:
- tổng: 29,88 chết/1.000 sống
- nam: 33,71 chết/1.000 sống
- nữ: 25,77 chết/1.000 sống (2004 ước tính)
Tuổi thọ triển vọng khi sinh:
- tổng dân số: 70,35 tuổi
- nam: 67,86 tuổi
- nữ: 73,02 tuổi (2004 ước tính)
Tổng tỷ lệ sinh: 2,22 trẻ em/phụ nữ (2004 ước tính)
Các nhóm dân tộc: người Việt 86%, Khmer Krom 1.5%, gốc Hoa 3%, người Mường, người Tày, người Hmông (Mèo), người Mán, người Chăm
Các tôn giáo:
- Phật giáo đại thừa Đạo giáo 78%
- Phật giáo tiểu thừa 5%
- Thiên chúa giáo 8%
- Cơ đốc giáo La Mã 7%
- Tin lành 1%
- Hồi giáo 0,7%
- Cao Đài 7-8 triệu tín đồ
- Hoà Hảo (gồm cả tiểu phần ly khai bên trong Phật giáo đại thừa)
- đức tin duy linh bản xứ
Các ngôn ngữ: tiếng Việt (chính thức), tiếng Khmer, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, các ngôn ngữ bộ tộc (bao gồm nhiều ngôn ngữ của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer và nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo)
Biết chữ:
- định nghĩa: từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết
- tổng dân số: 94% (2004 điều tra dân số)
- nam: 96,9%
- nữ: 91,9% (2002)