Kinh tế học Keynes
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kinh tế học Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết Chung về Việc làm, Lãi suất và Tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết Chung)[1] của John Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng. Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu cộng cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Mục lục |
[sửa] Bối cảnh hình thành
Cuộc Đại Khủng hoảng (1929-1933) đã ảnh hưởng sâu sắc tới suy nghĩ của Keynes về kinh tế học. Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi. Nhưng Keynes lại quan sát cuộc Đại Khủng hoảng và thấy, tiền công không hề giảm; việc làm cũng không tăng; và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường không hoàn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển nghĩ.[2] Những suy nghĩ mới mẻ của ông được ghi chép lại trong cuốn Chuyên luận về Tiền tệ[3] công bố năm 1931 và nhất là trong cuốn Lý thuyết Chung.
[sửa] Lý thuyết Chung
Lý thuyết Chung của Keynes đã giới thiệu một loạt lý luận mới mẻ đối với giới học thuật kinh tế thời ấy, đó là Tổng cầu (Chương 3), Nguyên lý Cầu Hữu hiệu (Chương 3), Kỳ vọng (Chương 5), Số nhân (Chương 10), Bẫy Thanh khoản. Chính vì thế, cuốn Lý thuyết Chung được giới học thuật kinh tế đánh giá như một cuộc cách mạng.[4]
Một số luận điểm chính mà Keynes trình bày trong cuốn Lý thuyết Chung gồm:
- Tiền công có tính cứng nhắc. Mức tiền công được thỏa thuận giữa chủ và thợ là tiền công danh nghĩa chứ không phải tiền công thực tế và mức tiền công này được ghi trong hợp đồng, được công đoàn và được luật pháp bảo vệ. Do đó, mức tiền công không phải là linh hoạt như giới học thuật kinh tế vẫn giả định. Giới chủ chỉ tăng thuê mướn lao động khi tiền công thực tế giảm; mà muốn thế thì tiền công danh nghĩa phải giảm nhiều hơn mức giá chung của nền kinh tế. Song nếu vậy, thì cầu tiêu dùng sẽ giảm, kéo theo tổng cầu giảm. Đến lượt nó, tổng cầu giảm lại làm tổng doanh số giảm, lợi nhuận giảm làm triệt tiêu động lực đầu tư mở rộng sản xuất- việc cần thiết để thoát khỏi suy thoái.
- Kỳ vọng về giảm tiền công và giá cả sẽ khiến người ta giảm chi tiêu do nghĩ rằng tiền trong túi của mình đang tăng giá trị. Cầu tiêu dùng và tổng cầu giảm. Cứ thế, vòng xoáy đi xuống của nền kinh tế hình thành.
- Lãi suất giảm không nhất thiết dẫn tới đầu tư tăng. Lãi suất giảm, nhưng tiết kiệm chưa chắc đã giảm theo do hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế của giảm lãi suất triệt tiêu lẫn nhau. Và khi tiết kiệm không giảm, thì đầu tư không tăng. Thêm vào đó, đầu tư cố định là đầu tư có kế hoạch dựa vào những dự tính dài hạn; nên không vì lãi suất giảm mà đầu tư tăng.
- Cái quy định lãi suất, nhất là trong ngắn hạn, chính là cung và cầu về tiền.
- Lãi suất không nên xuống thấp hơn một mức nào đó, vì ở mức thấp đó, các nhà đầu tư không còn muốn giữ trái phiếu mà chuyển sang giữ tiền mặt, tạo nên tình trạng tiết kiệm quá mức trong khi đầu tư lại thiếu. Cầu đầu tư giảm sẽ khiến tổng cầu giảm theo.
- Có thể đạt được mức cân bằng ngay cả khi có thất nghiệp.
- Thắt chặt chi tiêu trong thời kỳ khủng hoảng chỉ làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. Khi kinh tế suy thoái, chính phủ nên đẩy mạnh chi tiêu nhằm tăng tổng cầu như một chính sách chống suy thoái. Và nói chung, chính phủ nên tích cực sử dụng các chính sách chống chu kỳ, chứ đừng nên trông mong vào sự tự điều chỉnh của thị trường.
[sửa] Mô hình hóa lý luận của Keynes
- Năm 1937, nghĩa là chỉ một năm sau khi Lý thuyết Chung của Keynes được công bố, John Richard Hick (1904-1989) đã phát triển một mô hình, gọi là Phân tích IS-LM dùng để khám phá các giả thiết liên quan đến đầu tư và tiết kiệm, cung và cầu tiền.[5] Với mô hình này, công việc xác định điểm cân bằng mà Keynes đã lý luận trở nên dễ dàng.
- Năm 1939, Hicks còn mô hình hóa ý tưởng về bẫy thanh khoản mà Keynes đã đưa ra.[6]
- Trong những năm 1939-1948, Roy Forbes Harrod (1900-1978), một đồng nghiệp thân thiết của Keynes, đã phát triển một mô hình diễn giải về tăng trưởng kinh tế dựa trên lý luận của Keynes về qui định thu nhập.[7] Cùng thời gian đó, Evsey David Domar (1914-1997) độc lập phát triển một mô hình tương tự. Vì thế, mô hình này sau đó được gọi là mô hình Harrod-Domar.[8] Mô hình này cho phép người ta hiểu dễ hơn luận điểm của Keynes rằng khó có thể đạt được một mức cân bằng toàn dụng nhân lực và phát triển luận điểm cân bằng do cầu quyết định của Keynes vào lý luận tăng trưởng dài hạn và dao động chu kỳ nội sinh.
[sửa] Trường phái Keynes sau Keynes
Sau khi Keynes mất năm 1948, các lý luận của Keynes tiếp tục được một số nhà kinh tế Anh từ trường Cambridge trong nhóm Câu lạc bộ Keynes gồm Joan Robinson, Richard Kahn, Piero Sraffa, Austin Robinson và James Meade bảo vệ. Một loạt nhà kinh tế Anh ngoài trường Cambridge cũng đóng góp vào phát triển lý luận của Keynes gồm Roy F. Harrod, Michal Kalecki, Nicholas Kaldor, Abba P. Lerner, John R. Hicks, Maurice H. Dobb, Lorie Tarshis, Richard Stone, và George L.S. Shackle.
Lý luận của Keynes còn được phát triển ở Mỹ, song đã bị cải biên khá nhiều và nhất là được tổng hợp với lý luận tân cổ điển (Xem trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp).
[sửa] Chú thích và tham khảo
- ^ John M. Keynes (1936), General Theory on Employment, Interest and Money
- ^ Thuật ngữ kinh tế học cổ điển được Keynes đặt ra để chỉ những học thuyết kinh tế tồn tại trong khoảng một trăm năm cho tới lúc ông xuất bản cuốn Lý thuyết Chung. Sau Keynes, các nhà sử học kinh tế có điều chỉnh cách gọi kinh tế học cổ điển thành chỉ gồm các học thuyết kinh tế từ Adam Smith cho tói trước Walras. Còn từ Walras tới trước Keynes là kinh tế học tân cổ điển.
- ^ John M. Keynes (1931), Treasite on Money
- ^ Xem Klein R. Lawrence (1947), The Keynesian Revolution, New York: Macmillan.
- ^ John R. Hicks (1937), “Mr. Keynes and the Classics: A Suggested Simplification,” Econometrica, 5, pp. 147-159
- ^ John R. Hicks (1939) 1946, Value and Capital, Second Edition, Oxford: Clarendon Press.
- ^ Xem Roy F. Harrod (1939), "An Essay in Dynamic Theory," Economic Journal, 49 (March), pp. 14-33 và xem Roy F. Harrod (1948), Towards a Dynamic Economics: Some Recent Developments of Economic Theory and Their Application to Policy, London: Macmillan.
- ^ Xem Evsey D. Domar (1946), “Capital Expansion, Rate of Growth and Employment,” Econometrica.
[sửa] Liên kết ngoài
- Alam Choudhury, The Second Revolution in Economic Thought: The Keynesian School
- John Maynard Keynes
- Cambridge Keynesians
- Đọc trên mạng tác phẩm Lý thuyết Chung về Việc làm, Lãi suất và Tiền tệ
[sửa] Xem thêm
- Kinh tế học vĩ mô
- Kinh tế học tân cổ điển
- Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp
- Chủ nghĩa tiền tệ
- Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới
- Kinh tế học Keynes mới