Nguyễn Thiếp
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Thiếp (25 tháng 8 năm Quý Mão 1723-1804), tên hiệu phổ biến là La Sơn phu tử, huý là Minh, tự là Quang Thiếp, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc hay Nguyệt Áo (tục gọi là Nguyệt Ao), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn. Tổng La Thạch sau này lại thuộc về huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một vị quân sư tối cao của Hoàng đế Quang Trung.
Mục lục |
[sửa] Tên hiệu
Nguyễn Thiếp có nhiều tên tự hay tên hiệu, hoặc do ông tự đặt, hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn: Lam Hồng Dị Nhân, Khải Xuyên, Lạp phong cư sĩ, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Hạnh am, Hầu lục niên, Lục niên Tiên sinh, La Giang phu tử, La Sơn phu tử...
[sửa] Thân thế
La Sơn phu tử sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi vọng tộc, là con cháu Lưu Quận công, Cao tổ của Phu tử là Nguyễn Bật Lạng đậu Bảng nhãn (dưới Trạng Nguyên, trên Thám Hoa) trong một Chế khoa dưới triều Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (năm 1633).
Thân mẫu của Phu tử thuộc dòng dõi họ Nguyễn Trường Lưu, huyện Can Lộc cũng là một danh gia vọng tộc. Họ Nguyễn này có những nhân vật như Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, v.v.
Được nuôi dưỡng trong một gia đình có văn học uyên thâm, bên nội cũng như bên ngoại, và bằng hữu có nhiều tay chữ xuất chúng, Nguyễn Thiếp, lúc thiếu thời đã nổi tiếng văn tài lỗi lạc. Ông thi Hương đỗ giải Nguyên tức thủ khoa trường Nghệ An năm Quí Hợi, niên hiệu Lê Cảnh Hưng năm thứ 4 là năm (1743). Ông đậu giải Nguyên năm 21 tuổi, và "nhứt cử thành danh", nghĩa là chỉ đi thi một khoa là đậu đạt. Rồi đến năm 26 tuổi, ông đi thi Hội một khoa vào tam trường.
Từ đây, ông thề không đi thi nữa, và quyết tâm dứt bỏ con đường sĩ hoạn, chỉ vì ông thấy rõ lối học từ chương, khoa cử chẳng những vô ích cho bản thân và quốc gia, mà còn di hại cho tiền đồ Tổ quốc và hậu thế không ít.
[sửa] Thời kỳ làm quan Nhà Hậu Lê và ở ẩn
Năm 1756, tiên sinh phải ra nhậm chức Huấn đạo (giáo quan) ở huyện Lương Sơn (tức phủ Anh Sơn sau nầy). Lúc bấy giờ ông đã 34 tuổi.
Làm chức Huấn đạo 6 năm, đến năm 1762, tiên sinh được bổ làm chức Tri Huyện huyện Thanh Chương (tỉnh Nghệ An).
Nhưng đến năm 1768, vì đã 46 tuổi, ông xin cáo quan về vườn. Như vậy tiên sinh đã làm quan với nhà Lê được 13 năm.
Nguyên do sự từ chức của Nguyễn Thiếp là bởi vua Lê suy nhược, các chúa Trịnh lộng quyền, bọn hoạn thần chuyên chính, Lê Duy Mật dấy loạn, Trịnh Giang lại giết anh của Lê Duy Mật là Lê Duy Phương... Do đó, thế cuộc rối ren, rất khó xử. Làm việc quan thì ông thấy không chính đáng, can gián họ Trịnh thì cũng chẳng ăn thua gì, mà còn có thể bị liên lụy. Bởi vậy, ông nhất định từ quan. Sau khi treo áo mũ từ quan, ông lui về ở ẩn dật ở núi Thiên Nhẫn (Lục niên thành) và đi từ ngọn núi nầy sang ngọn núi kia như một tiên ông giáng thế. Đặc biệc là ông có đi thăm mộ Phạm Viên (Tiên ông đắc đạo) và thăm Bạch Vân Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc 55 tuổi và 58 tuổi (1777-1780).
Tuy La Sơn phu tử đã về ở ẩn, nhưng tiếng tăm thì ai ai cũng biết, chấn động đến cả kinh kì, nào Hiệp trấn Bùi Huy Bích tặng thơ, nào chúa Trịnh Sum mời ra Kinh đô để trọng dụng.
Tuy nhiên, Nguyễn Thiếp can gián chúa Trịnh đừng tiếm vị vua Lê, nhưng thấy không có ảnh hưởng, ông lại trở về trại núi. Lúc nầy, Viên Quận công Quốc sư quốc lão lại mời Cụ đến để hỏi chuyện tư tiên.
[sửa] Tam cố thảo lư
Vua Quang Trung đã ba lần mời Nguyễn Thiếp ra làm quân sư, chính là để thu phục nhân sĩ Bắc Hà, vì Nguyễn Thiếp là thầy giáo của nhiều triều thần Lê Trịnh đương thời.
Năm 1786 tức niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 47, vua Lê quá già yếu, chúa Trịnh Khải quá lộng hành. Trong Nam thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã lấy được thành Phú Xuân, thừa thắng lấy cả Thăng Long với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh.
Nguyễn Huệ được sắc phong "Nguyên suý phù chính dực võ Uy quốc công" và lấy công chúa Ngọc Hân.
Khi Bắc Bình vương Nguyễn Huệ khởi nghĩa từ miền Trung rồi kéo quân ra Bắc đánh họ Trịnh, lúc đi qua vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, nghe đại danh của tiên sinh, bèn thân hành tới nơi cầu hiền và khẩn thiết mời tiên sinh ra giúp việc nước. Nhưng tiên sinh nhứt định từ chối lấy lẽ vì mình là thần tử nhà Lê, và cũng tự nhận mình là một kẻ sĩ cao khiết không muốn sống chung với bọn người bôn xu danh lợi, vinh thân phì gia.
Bị tiên sinh từ khước, Nguyễn Huệ hỏi "Hay là tiên sinh cho chúng tôi là đám người bình dân vô học, không đủ khả năng mưu đồ quốc gia đại sự, dẹp loạn yên dân?" Tiên sinh trả lời "Bỉ nhân không có những nhận thức sai lầm lệch lạc như thế bao giờ. Vì lịch sử từ ngàn xưa đã chứng minh: Lưu Bang Hán Cao tổ cũng chỉ là một người bình dân; Lưu Huyền Đức xuất thân chỉ là một người thợ giày; Bình Định Vương Lê Lợi xuất thân cũng là một nông dân áo vải đất Lam Sơn. Bởi vậy sự thành công hay thất bại của anh em Ngài sau này, vấn đề chính yếu không phải là ở chỗ là người bình dân hay quí phái, mà là do tài đức và phương pháp làm việc của các Ngài. Riêng bỉ nhân thì không thể nào ra giúp Ngài được, vì ít nhiều bỉ nhân cũng đã là một thần tử nhà Lê, và đạo làm người của một nhà Nho không cho phép bỉ nhân làm như thế."[cần chú thích]
Lần nầy, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc đánh chúa Trịnh thua tơi bời, khi trở về miền Trung lại một lần nữa ghé vào thảo lư của tiên sinh để yết kiến.
Vừa trông thấy mặt tiên sinh, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ nói "Nay tiên sinh đã chịu nhìn nhận tôi là một tay anh hùng chưa?" Tiên sinh trả lời một cách tự nhiên như không cần phải suy nghĩ "Ngài có thể trở nên một người anh hùng cái thế, mà cũng có thể là một tay gian hùng, vấn đề còn tuỳ thuộc vào công việc làm tối hậu của Ngài sau lần này quyết định." "Như thế có nghĩa là sao?" Bắc Bình vương hỏi. "Điều đó thật rõ ràng như ban ngày. Họ Trịnh là một thứ quân phiệt hoán đoạt, lấn áp hết quyền hành nhà Lê, nay Ngài ra Bắc hà đánh dẹp họ Trịnh, chỉ có mục đích phù Lê mà thôi, như vậy Ngài là một vị anh hùng muôn thuở. Ngược lại, nhè đúng lúc nội bộ rối ren của đối phương để nổi lên giành quyền cướp nước cho mình và anh em mình thôi, như vậy là kẻ gian hùng chứ sao?"[cần chú thích]
Lại một lần nữa, Bắc Bình Vương ngỏ ý khẩn thiết mời tiên sinh vào Trung giúp việc. Nhưng ông vẫn từ chối, vẫn giữ mãi ý kiến lần trước.
Một thời gian sau, khi Bắc Bình vương ở Thuận Hoá nghe tin Lê Chiêu Thống đã vội vã chạy sang Tàu cầu viện, và hai trăm ngàn quân Mãn Thanh bắt đầu kéo sang lãnh thổ Việt Nam, Bắc Bình Vương, sau khi lên ngôi Hoàng đế, liền cất quân ra Bắc đối phó với tình thế.
Khi vua chưa tới vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Nguyễn Thiếp Tiên sinh đã tự ý đi vào tận Hoành Sơn (nơi giáp giới Quảng Bình, Hà Tĩnh) để đón tiếp.
Vừa gặp mặt vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp nói "Hai lần trước, sở dĩ tôi từ khước lời Ngài là vì vấn đề vua Lê với chữ trung trong luân lí. Nay Lê Chiêu Thống đã rước voi về giày mả tổ, ông ta đã trở thành một tên phản quốc rõ ràng, thì nay vấn đề nhà Lê không còn nữa. Là một thần dân có ít nhiều hiểu biết, tôi có bổn phận phải hết sức giúp Ngài đánh bại lũ giặc Mãn Thanh, để cứu lấy giang sơn và chủng tộc."[cần chú thích]
Vua Quang Trung hết sức vui mừng, liền mời ông ngồi vào ghế quân sư, như Lưu Bị nhà Hậu Hán đối với Khổng Minh vừa từ thảo xá ra vậy.
[sửa] Làm quân sư cho Hoàng đế Quang Trung
Khi thảo luận đến đại sự đánh quân nhà Thanh, Nguyễn Thiếp đã trình bày "Cổ nhân nói: 'Sư xuất vô danh, sự cố bất thành', nghĩa là xuất quân không có chính danh nên việc không thành. Bây giờ, đại quân của Hoàng đế ra Bắc Hà đánh giặc Mãn Thanh cứu nước là danh chính ngôn thuận đối với quốc dân, bởi lẽ Hoàng đế tượng trưng cho quốc quyền Việt Nam, đại diện cho nhân dân Việt Nam, Lê Chiêu Thống đã rước giặc Tàu về nước, thì không còn nhà Lê nữa."
Trước 200 trăm nghìn quân Mãn Thanh xâm lăng, một lực lượng hùng hậu của giặc, ông nói "Số quân của Hoàng đế kéo từ miền trong ra đây chưa đủ để chống đối với quân giặc, mà trở lại miền trong chiêu mộ thêm binh thì thời gian không cho phép. Vậy Hoàng đế phải tuyển mộ ngay quân lính ở đất Thanh Hoá, Nghệ An, và Hà Tĩnh này, vì nơi đây là đất thượng võ xưa nay, anh hùng nhiều, mà hảo hán cũng nhiều, nơi đây mà ngày trước vua Trần Nhân Tông đã nói khi nước ta bắt đầu chống giặc ngoại xâm Mông Cổ: 'Hoan diễn do tồn thập vạn binh'."
Khi đề cập đến chiến lược, chiến thuật, ông trình bày với vua Quang Trung "Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, chúng đang kiêu căng ngạo mạn và khinh địch. Doanh trại, chúng chưa thiết lập xong. Vậy chiến lược chiến thuật của ta là tốc chiến tốc quyết thắng."
"Cổ binh thư đã nói 'Dĩ tật công lao giả thắng' và 'Công kì vô bị, kích kì bất ý giả tất thắng' cùng 'Tiên phát giả chế nhân, hậu phát giả chế ư nhân'... Theo sự dự liệu của bọn tướng giặc Tàu, ít ra cũng phải tới cuối tháng Giêng, quân ta mới đến ngoài đó. Vậy ta phải làm thế nào cho quân ta tới Bắc Hà và Đông Kinh (tức Hà Nội) trước sự dự đoán của chúng, và đánh chúng ngay trước sự bất ngờ. Vậy thì chuyển vận quân thế nào cho kịp?" Vua Quang Trung hỏi.
Tiên sinh ứng khẩu trả lời ngay "Phải bằng cách chạy mau, cứ hai người khiêng một người và phải thay đổi nhau".[cần chú thích]
Người đời kể chuyện rằng trong đại công đánh bại 200 nghìn quân Mãn Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, vị tham mưu tối quan trọng vẫn là Nguyễn Thiếp tiên sinh.
Sau khi giúp vua Quang Trung đánh bại giặc ngoại xâm Mãn Thanh, Nguyễn Thiếp được nhà vua tôn làm quân sư, vị cố vấn tối cao của triều đình. Những sự cải cách rộng lớn về chánh trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong triều đại nhà Tây Sơn, phần lớn đều do Nguyễn Thiếp tiên sinh hoạch định.
Tháng 11 năm 1788, Nguyễn Huệ quyết định đóng đô ở Nghệ An, giao cho trấn thủ Thận và cố vấn Nguyễn Thiếp tổ chức xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô ở khu vực núi Dũng Quyết, vùng Bến Thủy, thành phố Vinh ngày nay. Thành ngoài xây bằng đất và đá ong, hình tứ giác, chu vi 2.820 m, bờ thành cao 3-4 m, diện tích 22 ha, bao quanh thành ngoại là con hào rộng 30 m, sâu 3 m. Thành nội xây bằng gạch vồ và đá ong, chu vi 1.680 m, với hai dãy hành lang nối liền với điện Thái Hòa, nơi vua thiết triều.
Tại triều, La Sơn phu tử chủ trương dùng Việt ngữ, dùng chữ Nôm trong các hạng công văn, sắc dụ để thay thế chữ Hán.
Nguyễn Thiếp còn làm Viện trưởng Viện Sùng chính và đã dày công phiên dịch các bộ sách Tứ thư (tức Đại học, Luận ngữ, Mạnh tử và Trung dung) và Ngũ kinh (tức Kinh Thi, Kinh Thượng Thư, Kinh Lễ ký, Kinh Xuân Thu và Kinh Chu dịch).
Tiếc rằng những tác phẩm của La Sơn phu tử, vì vua Quang Trung chết yểu, sau đó là triều nhà Nguyễn bị ảnh hưởng Tống Nho, các sĩ phu cắm đầu vào chữ Hán, thơ, phú, kinh nghĩa, tứ lục, nên những tác phẩm có giá trị không được ấn hành và bảo tồn, đến bây giờ không còn nữa.
Người ta truyền lại rằng hôm vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Thiếp tiên sinh thở dài não nuột nói: "Đại sự hưu hỹ" nghĩa là "đại cuộc thế là hỏng cả".
Có lẽ Nguyễn Thiếp đã biết rõ Nguyễn Quang Toản là một người vô tài bạc đức, vô dụng cho đại cuộc, không thể nối nghiệp lớn của thân phụ, cũng như Khổng Minh Gia Cát Lượng không hề không biết con người vô dụng của Hậu Hán chúa Lưu Thiện.
Tuy nhiên, cả hai người không thể vì tình tri ngộ của chúa Lưu Bị và vua Quang Trung mà không tận tâm tận lực giúp Lưu Thiện và Nguyễn Quang Toản.
Tới khi vua Gia Long đã cậy dựa vào được thế lực ngoại bang do Bá Đa Lộc làm trung gian, nên thanh thế càng mạnh mẽ, cơ đồ nhà Nguyễn Tây Sơn lâm nguy, Nguyễn Thiếp đề nghị với Nguyễn Quang Toản hãy tạm dời kinh đô ra vùng Nghệ Tĩnh, và lấy nơi đây làm căn cứ địa. Nhưng Nguyễn Quang Toản không nghe. Hôm vua Gia Long kéo quân tới chiếm kinh đô Phú Xuân, trăm quan văn võ vua tôi nhà Tây Sơn đều bỏ chạy cả. Chỉ có Nguyễn Thiếp vẫn điềm tĩnh ngồi yên ở tư thất, không cần chạy đi đâu hết.
Hạ xong Phú Xuân thành, Gia Long sai người mời tiên sinh tới hỏi chuyện. Vừa trông thấy tiên sinh, vua Gia Long hỏi "Nghe đâu ông già làm quân sư cho nguỵ quyền Nguyễn Huệ chống lại trẫm."
Tiên sinh bình tĩnh phúc đáp "Nguyễn Huệ là một tay anh hùng tuấn kiệt của nước Việt Nam. Nếu bảo rằng ông ấy có tội thì chỉ có tội riêng với ngài, với họ Nguyễn Phúc mà thôi. Còn đối với dân tộc Việt Nam, thì ông ấy là người có công rất lớn. Công ấy là công đã đánh tan 200 nghìn quân Mãn Thanh, nên tôi đã giúp ông ấy làm việc đó."[cần chú thích]
Sau cùng, vua Gia Long ngỏ ý muốn mời Nguyễn Thiếp làm cố vấn. Nhưng ông không nhận lời, viện lẽ tuổi đã già, sức lực đã yếu kém.
Cuối cùng, vua Gia Long cấp phu cáng và hành lý cho ông trở về quê nhà dưỡng lão cho tới lúc lâm chung.
[sửa] Đánh giá
Để qui định một mẫu người “Trượng phu quân tử Đông phương”, các nhà Hiền triết ngày xưa đã đề ra ba tiêu chuẩn:
-“Phú quý bất năng dâm” là giàu sang không làm hoen ố căn bản đạo đức của một con người.
-“Bần tiện bất năng di” là nghèo hèn không làm thay đổi những ý hướng, những sơ tâm hoài bão.
- “Oai vũ bất năng khuất” là không khuất phục trước bất cứ một thế lực, một oai vũ nào. Ai thực hiện đầy đủ ba tiêu chuẩn đó mới được gọi là người Đại trượng phu.
Điểm qua những lời nói và việc làm của La Sơn phu tử, xuyên qua ba khúc ngoặc lịch sử (Lê Mạt, Nguyễn Huệ , Gia Long) chúng ta thấy rằng La Sơn phu tử đúng là một mẫu người trượng phu quân tử Đông phương.
Thiệt vậy, khi đang làm một thần tử nhà Lê, được Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ thỉnh làm quân sư, Phu tử đã không vì cảnh phú quý ấy mà làm hoen ố căn bản đạo đức của một con người (Vi thần tận trung).
Trong thời gian ẩn cư, Phu tử vẫn vui với cái sống thanh cao đạm bạc, không vì hoàn cảnh đó mà thay đổi sơ tâm hoài bão của một con người ẩn dật hiền sĩ.
Trước những thế lực, những oai vũ của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ (ở giai đoạn trước) và vua Gia Long (ở giai đoạn sau), thuỷ chung Phu Tử vẫn giữ trọn vẹn phong độ của một con người “Hiền sĩ”, làm cho Nguyễn Huệ cũng như Gia Long, cả hai đều phải mến phục.
Ngoài những đức tính đáng kính mến ở trên, La Sơn phu tử còn để lại cho hậu thế chúng ta ba tấm gương trong sáng, đó là:
[sửa] Lập trường dân tộc
Sinh ra và lớn lên trong chế độ phong kiến, như La Sơn phu tử không hề bị ràng buộc bởi ý thức hệ phong kiến trung quân một cách mù quáng mà người ta cho là ngu trung.
Nghĩa là khi Lê Chiêu Thống đã nhẫn tâm rước quân ngoại bang về giày xéo trên đất nước rồi, thì Nguyễn Tiên sinh quyết dứt khoát hẳn với nhà Lê để đứng hẳn về lập trường dân tộc, và hết mình giúp vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh giặc Mãn Thanh để cưú nguy đất nước.
[sửa] Căn bản văn hoá dân tộc
Là một người học giả thuần tuý Hán văn, chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa sâu đậm, nhưng La Sơn phu tử vẫn gìn giữ được trọn vẹn văn hoá truyền thống dân tộc, cụ thể nhứt là việc Phu tử đã tận lực giúp vua Quang Trung nhà Tây Sơn trong vấn đề cải cách chữ Hán. Phu Tử nhứt quyết dùng tiếng mẹ đẻ (chữ Nôm) trong mọi sinh hoạt văn hoá Việt Nam.
[sửa] Vấn đề tri nhân và thức thời
Không chịu ra giúp Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ở giai doạn trước, mà Nguyễn Tiên Sinh lại cương quyết ra giúp vua Quang Trung ở giai đoạn sau.
Tiên sinh đã tận tâm tận lực giúp vua Quang Trung nhà Tây Sơn, mà lại từ khước giúp vua Gia Long họ Nguyễn Phúc khi đã được hãnh diện lên voi.
La Sơn phu tử quả thật là một người có nhãn lực truy nhân và thức thời vậy.
Cố nhân đã nói: “Thức thời vụ tại hồ tuấn kiệt”, chính La Sơn phu tử là một kẻ tuấn kiệt của nước nhà.