Algérie
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|||||
Khẩu hiệu quốc gia: من الشعب و للشعب Tiếng Ả Rập: "Cách mạng do dân và vì dân" |
|||||
Quốc ca: Kassaman (Qasaman Bin-Nāzilāt Il-Māḥiqāt) | |||||
Thủ đô | Algiers [1]
|
||||
Thành phố lớn nhất | Algiers | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Ả Rập | ||||
Chính phủ
Tổng thống
Thủ tướng |
Cộng hòa dân chủ Abdelaziz Bouteflika Ahmed Ouyahia |
||||
Độc lập |
Từ Pháp 5 tháng 7, 1962 |
||||
Diện tích • Tổng số • Nước (%) |
2.381.740 km² (hạng 11) |
||||
Dân số • Ước lượng năm 2005 • Thống kê dân số • Mật độ |
32,531,853 (hạng 36) 13 người/km² |
||||
HDI (2003) | 0,722 (hạng 103) – trung | ||||
GDP (2004) • Tổng số (PPP) • Trên đầu người (PPP) |
$217,224 tỷ đô la Mỹ (hạng 38) $6.799 đô la Mỹ (hạng 85) |
||||
Đơn vị tiền tệ | Dinar Algérie (DZD ) |
||||
Múi giờ • Quy ước giờ mùa hè |
CET (UTC+1) CET (Không áp dụng) |
||||
Tên miền Internet | .dz |
||||
Mã số điện thoại | +213 | ||||
Algéria (tiếng Ả rập: الجزائر Bảng ký hiệu ngữ âm quốc tế [ɛlʤɛˈzɛːʔir], tiếngBerber (Tamazight) : Lz̦ayer [ldzæjər]), tên chính thức Cộng hoà Dân chủ Algéria là một nước tại Bắc Phi, và là nước lớn thứ hai trên lục địa Châu Phi, Sudan là nước lớn nhất.[1] Nước này có chung biên giới với Tunisia ở phía đông bắc, Libya ở phía đông, Niger phía đông nam, Mali và Mauritania phía tây nam, và Morocco cũng như một vài kilômét lãnh thổ phụ thuộc, Tây Sahara, ở phía tây. Theo hiến pháp, nước này được xác định là một quốc gia Hồi giáo, Ả rập, và Amazigh (Berber). Cái tên Algéria xuất phát từ tên thành phố Algiers, và chính thức từ từ tiếng Ả rập al-jazā’ir, được dịch thành hòn đảo, để chỉ bốn hòn đảo nằm ngoài khơi thành phố này trước khi chúng trở thành một phần lục địa năm 1525. Nhưng có lẽ chính xác nhất từ Algiers xuất phát từ từ « Ziriya Bani Mazghana » (được các nhà địa lý thời trung cổ như al-Idrisi và Yaqut al-Hamawi sử dụng) để chỉ người sáng lập ra nó vua Ziri Amazigh (thành phố của Ziri Amazigh), người thành lập thành phố Algiers thời trung cổ. Không may thay, để dấu nguồn gốc Amazigh của cái tên Algéria đi ngược lại với chính sách quốc gia Ả rập của các chính phủ Algéria, nguồn gốc Amazigh này không được công nhận.
Ngày 28 tháng 10 năm 1962 thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
Algéria từng là nơi sinh sống của người Berber (hay Imazighen) từ ít nhất năm 10,000 TCN. Từ năm 1000 TCN trở về sau, người Carthage bắt đầu tạo lập ảnh hưởng tại đây, thành lập nên những khu định cư dọc bờ biển. Các vương quốc Berber bắt đầu xuất hiện, nổi tiếng nhất là Numidia, lợi dụng cơ hội sau Các cuộc chiến tranh Punic để trở thành độc lập với Carthage nhưng ngay sau đó lại bị Cộng hòa La Mã chiếm năm 200 TCN. Khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ, người Berber một lần nữa giành lại độc lập trong khi người Vandals chiếm nhiều vùng khác cho tới khi bị các vị tướng của Hoàng đế Byzantine, Justinian I trục xuất khỏi nơi này. Sau đó, Đế chế Byzantinee tạm thời kiểm soát được vùng phía đông đất nước cho tới khi người Ả rập xuất hiện vào thế kỷ thứ 8.
Sau một số thập kỷ kháng chiến dữ dội dưới sự lãnh đạo của Kusayla và Kahina, người Berbers chấp nhận Hồi giáo en masse (theo số đông), nhưng hầu như ngay lập tức trục xuất umayyad Caliphate ra khỏi Algéria, thành lập nên một nhà nước Ibadi của những người Rustamid. Sau khi đã cải đạo Kutama của người Kabylie sang đạo của mình những người Fatimid Shia lật đổ Rustamids, và chinh phục Ai Cập. Họ để lại Algéria và Tunisia cho những kẻ chư hầu Zirid; sau này người Zirid nổi loạn và theo dòng Hồi giáo Sunni, họ đồng hóa với một bộ lạc Ả rập đông dân, bộ lạc Banu Hilal, để làm yếu bộ lạc đó, nhưng điều đó bất ngờ lại dẫn tới quá trình Ả rập hoá vùng nông thôn. Almoravid và Almohad, các triều đại của người Berber từ phía tây do những người cải cách tôn giáo lập nên đã mang lại một giai đoạn khá ổn định và phát triển; tuy nhiên với sự sụp đổ của Almohads, Algéria trở thành một chiến trường cho ba quốc gia tiếp theo, Zayyanid của Algéria, Hafsid của Tunisia, và Marinid của Marốc. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu, Tây Ban Nha bắt đầu tấn công chiếm giữ nhiều thành phố ven biển, tìm cách lôi kéo sự hỗ trợ từ Đế chế Ottoman.
Algéria được gộp vào trong Đế chế Ottoman bởi Khair ad-Din và em trai ông là Aruj, người đã lập ra những biên giới hiện đại của Algéria ở phía bắc và biến bờ biển nước này thành cơ sở cho những tên cướp biển; cướp biển phát triển mạnh nhất tại trong những năm 1600. Việc cướp bóc các tàu buôn Hoa Kỳ trên Địa Trung Hải dẫn tới cuộc chiến Barbary thứ nhất và thứ hai với Hoa Kỳ. Viện lý do coi thường Lãnh sự của mình, Pháp xâm chiếm Algiers năm 1830; tuy nhiên, nhiều cuộc kháng chiến do các cá nhân như Emir Abdelkader, Ahmed Bey và Fatma N'Soumer tiến hành khiến công cuộc chinh phục Algéria của Pháp diễn ra chậm chạp, về mặt kỹ thuật chỉ hoàn thành vào cuối những năm 1900 khi Tuareg cuối cùng bị chinh phục.
Tuy nhiên, trong lúc ấy Pháp đã biến Algéria thành một phần lãnh thổ của mình, tình trạng này chỉ chấm dứt với sự sụp đổ của nền Đệ tứ Cộng hoà. Hàng chục nghìn người định cư từ Pháp, Italia, Tây Ban Nha và Malta đã tới sống tại các trang trại trên đồng bằng ven biển Algéria và chiếm đa số những vùng ưu thế tại các thành phố ở Algéria, lợi dụng việc sung công các đất do các cộng đồng sở hữu của Pháp, và ứng dụng các công nghệ nông nghiệp mới để tăng diện tích đất canh tác. Hậu duệ của những người Châu Âu tại Algéria (được gọi là chân đen), cũng như những người gốc Algérian theo Do Thái (thường có nguồn gốc Sephardic), trở thành các công dân Pháp thực sự bắt đầu từ cuối thế kỷ 19; trái lại, đa phần dân Hồi giáo Algéria (thậm chí cả những cựu chiến binh trong quân đội Pháp) không được nhận Pháp tịch cũng như quyền bầu cử. Kết cấu xã hội Algéria đã bị đẩy tới mức căng thẳng tột cùng trong giai đoạn này: tỷ lệ biết chữ giảm sút[1], trong khi việc quốc hữu hóa đất đai đã khiến nhiều người dân trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, dân số vẫn tăng đều đặn[2].
Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia (FLN) bắt đầu một cuộc chiến tranh giành độc lập cho Algéria; sau gần một thập kỷ chiến đấu cả tại thành thị và vùng nông thôn, họ đã thành công trong việc hất cẳng Pháp năm 1962. Đa phần trong số 1,025,000 người chân đen, cũng như 91,000 người harki (người Hồi giáo Algéria ủng hộ Pháp trong quân đội Pháp), chiếm khoảng 10% dân số Algéria năm 1962, đã di cư sang Pháp trong vài tháng giữa năm đó.
Tổng thống đầu tiên của Algéria, lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Quốc gia Ahmed Ben Bella, bị cựu đồng minh cũ và là bộ trưởng quốc phòng Houari Boumédiènne lật đổ năm 1965. Dưới thời Ben Bella chính phủ ngày càng đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và độc tài, và chiều hướng này tiếp tục kéo dài tới thời chính phủ Boumedienne; however, Boumedienne tiếp tục dựa nhiều vào quân đội, giảm bớt vai trò của đảng cầm quyền duy nhất chỉ còn mang tính tượng trưng. Nông nghiệp được hợp tác hoá, và một phong trào công nghiệp hóa rộng rãi được triển khai. Các cơ sở khai thác dầu khí được tư nhân hóa giúp tăng tài sản quốc gia, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng nền kinh tế Algéria dần trở nên phụ thuộc vào dầu mỏ, khiến nó gặp khó khăn khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập kỷ 1980. Trong chính sách đối ngoại Algéria là một thành viên và lãnh đạo của phong trào các quốc gia 'không liên kết'. Sự tranh giành Tây Sahara với Marốc hầu như đã đưa hai nước tới bờ vực chiến tranh. Bất đồng chính trị ít được nhân nhượng và sự kiểm soát của nhà nước đối với phương tiện truyền thông cũng như việc đặt các đảng chính trị không phải Phong trào Giải phóng Quốc gia ra ngoài vòng pháp luật được thể chế hóa theo hiến pháp hà khắc năm 1976. Boumédienne chết năm 1978, nhưng thời cầm quyền của người kế vị, Chadli Bendjedid, cũng không mang lại nhiều cải cách hơn. Nhà nước mang nặng tính quan liêu và tham nhũng tràn lan.
Hiện đại hóa đã mang lại những thay đổi lớn trong nhân khẩu Algéria. Các truyền thống làng xã trải qua những thay đổi lớn cùng với sự tăng lên của quá trình đô thị hoá, các ngành công nghiệp mới xuất hiện, nông nghiệp bị thu hẹp ai trò, và giáo dục, vốn không phát triển ở thời thuộc địa, đã được mở rộng ra khắp đất nước, nâng tỷ lệ biết chữ từ chưa tới 10% thành hơn 60%. Những cải thiện trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe gây ra sự tăng trưởng rất cao ở tỷ lệ sinh (7-8 trẻ trên mỗi phụ nữ) gây ra hai hậu quả: một dân số rất trẻ, và sự khủng hoảng chỗ ở. Thế hệ mới đấu tranh để liên hệ với nỗi ám ảnh văn hóa những năm chiến tranh và hai phong trào phản kháng bắt đầu phát triển: những người cánh tả, gồm các phong trào của người Berber, và những người 'bảo vệ' Hồi giáo. Cả hai đều chống lại sự cầm quyền độc đảng nhưng cũng xung đột với nhau cả trong các trường đại học và trên đường phố trong thập kỷ 1980. Những cuộc tuần hành đông đảo của hai phe trong mùa thu năm 1988 buộc Benjedid phải chấm dứt chế độ cầm quyền một đảng và cuộc bầu cử tự do được tuyên bố diễn ra năm 1991.
Tháng 12 năm 1991, Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo thắng lợi tại vòng một cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên của nước này. Quân đội sau đó đã hủy bỏ vòng hai, buộc tổng thống khi ấy là Bendjedid từ chức và cấm Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo. Những cuộc xung đột tiếp sau nhận chìm Algéria vào vòng bạo lực với cuộc Nội chiến Algéria. Hơn 100,000 người đã thiệt mạng, thường là trong những cuộc thảm sát dân thường vô có. Câu hỏi về người chịu trách nhiệm cho những cuộc thảm sát đó vẫn gây tranh cãi trong những nhà quan sát trong quốc hội; nhiều vụ bị gán cho các Nhóm vũ trang Hồi giáo. Sau năm 1998, cuộc chiến tranh gần tàn lụi và tới năm 2002 các nhóm du kích chính hoặc đã bị tiêu diệt hoặc đầu hàng đưa lại cơ hội cho một chương trình ân xá quốc gia, dù những cuộc xung đột lẻ tẻ vẫn diễn ra ở một số vùng. Các cuộc bầu cử được tiến hành lại năm 1995, và vào ngày 27 tháng 4, 1999, sau thời kỳ cầm quyền ngắn của một loạt tướng lĩnh quân đội, Abdelaziz Bouteflika, vị tổng thống hiện nay được bầu lên.[2] Vấn đề bản sắc và ngôn ngữ Berber ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt sau cuộc phản kháng Kabyle đông đảo năm 2001 và cuộc tẩy chay hầu như hoàn toàn cuộc tuyển cử tại Kabylie; chính phủ nhượng bộ và coi Tamazight (tiếng Berber) là ngôn ngữ quốc gia sử dụng trong các trường học. Đa phần các lĩnh vực Algéria hiện đã phục hồi, phát triển trở thành một nền kinh tế đang nổi. Giá dầu mỏ và khí gas cao là nhân tố giúp chính phủ cải thiện cơ sở hạ tầng đất nước và đặc biệt cải thiện công ngiệp và nông nghiệp. Những khoản đầu tư nước ngoài vào Algéria đã gia tăng gần đây.
[sửa] Giáo dục
- Giáo dục tiền cao học
- Thời gian giáo dục phổ cập
- độ tuổi 6 tới 15
[sửa] Cơ cấu hệ thống trường
- Căn bản
- Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Retared, Trường cơ sở
Thời gian chương trình: 9 năm
Độ tuổi: 6 tới 15 tuổi
Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng giáo dục cơ sở
- Trung học phổ thông
- Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học phổ thông, trung học đa ngành
Thời gian chương trình: 3 năm
Độ tuổi: 15 tới 18
Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng trung học phổ thông
- Trung học kỹ thuật
- Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học kỹ thuật
Thời gian chương trình: 3 năm
Chứng nhận/bằng được cấp: Tú tài kỹ thuật
[sửa] Chính trị
- Bài chính về chính trị và chính quyền của Algéria có thể tìm đọc tại Loạt bài về chính trị và chính quyền của Algéria.
Lãnh đạo Nhà nước là Tổng thống nền Cộng hoà, được bầu với nhiệm kỳ 5 năm, chỉ được tái cử một lần. Algéria áp dụng hệ thống bầu cử phổ thông đầu phiếu. Tổng thống là lãnh đạo Hội đồng Bộ trưởng và Hội đồng An ninh Cao cấp. Tổng thống chỉ định Thủ tướng, thủ tướng là lãnh đạo chính phủ. Thủ tướng chỉ định Hội đồng Bộ trưởng.
Nghị viện Algérian theo chế độ lưỡng viện, gồm hạ viện là Quốc hội Nhân dân (APN), với 380 thành viên và Thượng viện, Hội đồng Quốc gia có 144 thành viên. Quốc hội Nhân dân được bầu với nhiệm kỳ 5 năm.
Trong suốt thập kỷ 1960, Algéria đã ủng hộ nhiều phong trào độc lập vùng Hạ Sahara Châu Phi, nước này là một lãnh đạo Phong trào không liên kết. Trong khi cùng có nhiều di sản lịch sử và văn hóa chung với Ma rốc, hai nước lại có quan hệ thù địch với nhau kể từ khi Algéria giành lại độc lập. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân: những vùng đất tranh chấp tại tây Algéria của Ma rốc (dẫn tới cuộc chiến tranh Sand năm 1963), và việc Algéria ủng hộ Polisario, một nhóm vũ trang của người tị nạn Sahrawi đang tìm cách đòi độc lập cho vùng Tây Sahara thuộc quyền quản lý của Ma rốc, bên trong biên giới nước này tại thành phố Tindouf. Căng thẳng giữa Algéria và Ma rốc, cũng như các vấn đề liên quan tới cuộc Nội chiến Algéria, đã đặt ra nhiều vật cản trên con đường củng cố Liên đoàn Maghreb Ả rập, trên danh nghĩa được thành lập năm 1989 nhưng ít có vai trò thực tiễn, với các nước láng giềng dọc bờ biển.[3]
[sửa] Khu vực hành chính
Algéria được chia thành 48 tỉnh (wilayah):[1] | |||
1 Adrar | 17 El Bayadh | 33 Ouargla | |
2 Aïn Defla | 18 El Oued | 34 Oum el-Bouaghi | |
3 Aïn Témouchent | 19 El Tarf | 35 Relizane | |
4 Algiers | 20 Ghardaïa | 36 Saida | |
5 Annaba | 21 Guelma | 37 Sétif | |
6 Batna | 22 Illizi | 38 Sidi Bel Abbes | |
7 Béchar | 23 Jijel | 39 Skikda | |
8 Béjaïa | 24 Khenchela | 40 Souk Ahras | |
9 Biskra | 25 Laghouat | 41 Tamanghasset | |
10 Blida | 26 Médéa | 42 Tébessa | |
11 Bordj Bou Arréridj | 27 Mila | 43 Tiaret | |
12 Bouira | 28 Mostaganem | 44 Tindouf | |
13 Boumerdès | 29 M'Sila | 45 Tipasa | |
14 Chlef | 30 Muaskar | 46 Tissemsilt | |
15 Constantine | 31 Naama | 47 Tizi Ouzou | |
16 Djelfa | 32 Oran | 48 Tlemcen |
[sửa] Địa lý
Tiêu bản:MapLibrary Đa phần vùng bờ biển có nhiều đồi, thỉnh thoảng thậm chí là các dãy núi, và có ít bến cảng tốt. Vùng ngay phía nam bờ biển, được gọi là Tell, khá mầu mỡ. Xa hơn nữa về phía nam là dãy núi Atlas và sa mạc Sahara. Algiers, Oran và Constantine là các thành phố lớn.
Khí hâu Algéria khô cằn và nóng, dù khí hậu vùng bờ biển khá dễ chịu, mùa đông tại các vùng núi có thể rất khắc nghiệt. Algéria có nhiều gió nóng ẩm, một loại gió nóng mang theo bụi và cát đặc biệt thường xảy ra vào mùa hè.[1]
[sửa] Kinh tế
Lĩnh vực năng lượng hóa thạch là xương sống của nền kinh tế, chiếm khoảng 60% thu ngân sách, 30% GDP, và hơn 95% thu nhập xuất khẩu. Nước này xếp hạng 14 về trữ lượng dầu khí, với 11.8 tỷ thùng trữ lượng đã được chứng minh và ước tính số thực có thể vượt mức trên.[4] Cơ quan Thông tin Năng lượng đã thông báo rằng năm 2005, Algéria có 160 tỷ feet khối (Tcf) trữ lượng khí tự nhiên đã được khảo sát, đứng hàng thứ 8 thế giới.
Các chỉ số tài chính và kinh tế Algéria đã được cải thiện ở giữa thập niên 1990, một phần nhờ chính sách cải cách được Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hỗ trợ và việc tái cơ cấu nợ của Câu lạc bộ Paris. Tình hình tài chính Algéria trong năm 2000 và 2001 có bước cải thiện nhờ giá dầu tăng và chính sách thuế chặt chẽ của chính phủ, dẫn tới tăng trưởng mạnh thặng dư thương mại, và đạt mức cao kỷ lục về dự trữ ngoại tệ, giảm mạnh nợ nước ngoài. Những nỗ lực tiếp theo của chính phủ nhằm đa dạng hóa nền kinh tế bằng cách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài ra các lĩnh vực khác ngoài dầu khí mang lại ít thành công về mặt giảm mức độ thất nghiệp cao và cải thiện tiêu chuẩn sống. Năm 2001, chính phủ đã ký kết một Thỏa ước Liên hiệp với Liên minh Châu Âu cho phép hạ thấp các mức thuế và tăng cường thương mại giữa hai bên. Tháng 3 năm 2006, Nga đã đồng ý xoá 4.74 tỷ dollar nợ của Algéria với Liên bang xô viết cũ sau chuyến thăm viếng của Tổng thống Vladimir Putin tới nước này, lần đầu tiên của một nhà lãnh đạo Nga sau nửa thế kỷ. Đổi lại, tổng thống Abdelaziz Bouteflika đồng ý mua số máy bay chiến đấu, các hệ thống phòng không và các loại vũ khí khác của Nga trị giá 7.5 tỷ dollar, theo công ty xuất khẩu vũ khí nhà nước Nga Rosoboronexport.
Năm 2006 Algéria cũng đá quyết định trả hết toàn bộ số nợ 8 tỷ dollar cho Câu lạc bộ Paris Club trước thời hạn. Điều này giúp giảm số nợ của Algéria xuống còn chưa tới 5 tỷ dollar vào cuối năm 2006. Câu lạc bộ Paris cho rằng động thái này phản ánh sự hồi phục kinh tế Algéria trong những năm gần đây. Nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí gas phong phú, họ được lợi nhờ tăng giá năng lương.[5][6]
[sửa] Nhân khẩu
Dân số hiện tại của Algéria là 32,930,091 người (ước tính tháng 7, 2006)[1]. Báo cáo từ các nguồn quốc tế và phi chính phủ về số dân hiện tại khoảng 40 tới 50 triệu người[cần chú thích].
Khoảng 70% người Algéria sống ở miền bắc, vùng ven biển; một bộ phận nhỏ sống tại sa mạc Sahara và chủ yếu tập trung tại các ốc đảo, có khoảng 1.5 triệu người vẫn sống kiểu du mục hay bán du mục.
Chín chín phần trăm dân số được xếp hạng theo chủng tộc là người Ả rập/Berber và là tín đồ Hồi giáo; các tôn giáo khác chỉ hạn chế trong những cộng đồng rất nhỏ, chủ yếu là người nước ngoài. Người Châu Âu chiếm chưa tới 1% dân số.
Trong thời thuộc địa, có một cộng đồng Châu Âu lớn (chủ yếu là người Pháp) chân đen tại Algéria, tập trung ở ven biển và tạo thành một cộng đồng đa số trong nhiều thành phố. Hầu như toàn bộ số người này đã rời đi ngay sau khi nước này giành lại độc lập từ Pháp.
Đa phần người dân Algéria là người Ả rập theo ngôn ngữ và đặc tính, và có tổ tiên hòa trộn giữa Berber-Ả rập.[1] Người Berbers đã sống ở Algéria trước khi các bộ lạc Ả rập tới đây trong thời Đạo Hồi bành trướng ảnh hưởng ở thế kỷ thứ 7. Vấn đề chủng tộc và ngôn ngữ đã trở thành khá nhạy cảm sau nhiều năm hạn chế văn hóa Berber (hay Imazighen, như một số người muốn dùng) của chính phủ. Ngày nay, vấn đề Ả rập-Berber thường là về việc tự đồng hóa hay đồng hóa thông qua ngôn ngữ và văn hoá, chứ không phải là vấn đề phân biệt nguồn gốc hay chủng tộc. Khoảng chừng 20% dân số tự cho mình là người Berbers, và chủ yếu sử dụng các ngôn ngữ Berber (cũng được gọi bằng thuật ngữ Tamazight), và được chia thành nhiều nhóm chủng tộc, đáng chú ý gồm Kabyle (lớn nhất) ở vùng núi phía bắc miền trung, Chaoui ở phía đông Núi Atlas, Mozabite sống tại thung lũng M'zab, và Tuareg ở cực nam.
[sửa] Ngôn ngữ
Ngôn ngữ lớn nhất đồng thời là ngôn ngữ chính thức của Algéria, tiếng Ả rập, là tiếng mẹ đẻ ở hình thức thổ ngữ ("Darja") của 80% dân số, và giống như toàn bộ thế giới Ả rập, được sử dụng như biến thể Tiếng Ả rập tiêu chuẩn hiện đại trên các phương tiện truyền thông đại chúng và các dịp nghi lễ chính thức. Khoảng 20% dân số, tự coi mình là người Berber hay Imazighen, có tiếng mẹ đẻ không phải Ả rập mà là một kiểu thổ ngữ Tamazight. Tuy nhiên, nhiều người Algéria sử dụng thành thạo cả hai ngôn ngữ trên. Tiếng Ả rập là ngôn ngữ chính thức duy nhất của Algéria, dù tiếng Tamazight gần đây cũng được công nhận là ngôn ngữ quốc gia cùng với nó. Nghiên cứu phong tục học cho thấy có 18 ngôn ngữ tại Algéria, chia thành hai nhóm chính là tiếng Ả rập và Tamazight, ngoài ra còn có ngôn ngữ Korandje.[7]
Về mặt chính trị, vấn đề ngôn ngữ khá nhạy cảm, đặc biệt đối với cộng đồng thiểu số Berber, vốn đã trở nên yếu thế sau khi quốc gia chấp nhận Ả rập hoá. Chính sách ngôn ngữ và sự Ả rập hóa một phần là sự phản ứng trước sự thực rằng 130 năm thuộc địa hoá của Pháp đã để lại cho đất nước cả nền hành chính và giáo dục bậc cao đều hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cũng như sự thúc đẩy của chủ nghĩa quốc gia Ả rập do nhiều chính phủ liên tiếp tại Algéria tiến hành.
Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ được học nhiều nhất trong số các ngoại ngữ, và được sử dụng rộng rãi (vượt xa ngoại ngữ thứ hai là tiếng Anh), nhưng hiếm khi được coi là tiếng mẹ đẻ. Từ khi giành độc lập, chính phủ đã theo đuổi một chính sách Ả rập hóa ngôn ngữ giáo dục và hành chính, đã mang lại một số thành công, dù nhiều giáo trình đại học vẫn được giảng dạy bằng tiếng Pháp.
[sửa] Văn hoá
Văn học hiện đại Algéria, bị phân chia giữa Ả rập và Pháp, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch sử gần đây của đất nước. Các nhà văn nổi tiếng thế kỷ 20 gồm Mohammed Dib, Albert Camus, và Kateb Yacine, còn Assia Djebar là nhà văn có số lượng tác phẩm được dịch khá lớn. Những nhà văn nổi bật thập niên 1980 gồm Rachid Mimouni, sau này là phó chủ tịch tổ chức Ân xá Quốc tế, và Tahar Djaout, bị một nhóm Hồi giáo giết hại năm 1993 vì các quan điểm thế tục của ông.[8] Ngay từ thời La Mã, Apuleius, sinh tại Mdaourouch, đã có tư tưởng về một quốc gia Algéria.
Trong triết học và nhân loại học, Malek Bennabi và Frantz Fanon được chú ý về các tư tưởng của họ với quá trình giải thực, trong khi Augustine of Hippo sinh tại Tagaste (khoảng 60 dặm từ thành phố Annaba hiện nay), và Ibn Khaldun, dù sinh tại Tunis, đã viết ra Muqaddima khi đang sống ở Algéria.
Văn hoá Algéria đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Hồi giáo, tôn giáo chính của quốc gia này. Các tác phẩm của gia đình Sanusi thời tiền thuộc địa và của Emir Abdelkader và Sheikh Ben Badis thời thuộc địa, rất đáng chú ý.
Thể loại âm nhạc Algéria nổi tiếng nhất trên thế giới là raï, một loại nhạc có khuynh hướng pop, dựa trên âm nhạc dân gian, được các ngôi sao quốc tế như Khaled và Cheb Mami thể hiện. Tuy nhiên, tại chính Algéria kiểu âm nhạc cổ điển hơn, biểu diễn rõ từng chữ là chaabi lại phổ biến hơn, với các ngôi sao như El Hadj El Anka hay Dahmane El Harrachi, trong khi thể loại âm nhạc có các giai điệu du dương Kabyle, được Idir, Ait Menguellet, hay Lounès Matoub biểu diễn, thu hút được rất đông thính giả. Về các thị hiếu âm nhạc cổ điển hơn, âm nhạc cổ điển Andalusia, do những người tị nạn Morisco từ Al-Andalus đưa tới, vẫn được gìn giữ trong nhiều thị trấn cổ ven biển.
Trong lĩnh vực hội hoạ, Mohammed Khadda[9] và M'Hamed Issiakhem[10] là hai khuôn mặt đáng chú ý trong những năm gần đây.
[sửa] Các chủ đề khác
- Khảo cổ học Algéria
- Viễn thông Algéria
- Quan hệ nước ngoài Algéria
- Danh sách các chủ đề liên quan tới Algéria
- Danh sách các thành phố tại Algéria
- Danh sách nhân vật Algéria
- Danh sách các quốc gia có chủ quyền
- Quân đội Algéria
- Vận tải Algéria
- Trận Algiers
- Chiến tranh giành độc lập Algéria (1954-1962)
- Nội chiến Algéria (1991-2002)
- Hướng đạo sinh Hồi giáo Algéria
[sửa] Tham khảo
- ▲ 1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 1,5 CIA World Factbook Algeria (accessed 4 tháng 4, 2006)
- ▲ Arabic German Consulting www.arab.de (accessed 04 April, 2006)
- ▲ Bin Ali calls for reactivating Arab Maghreb Union, Tunisia-Maghreb, Politics, 2/19/1999 www.arabicnews.com (accessed 04 April, 2006)
- ▲
- ▲ “Russia agrees Algéria arms deal, writes off debt”, Reuters, March 11 2006.
- ▲ Tiêu bản:Fr “La Russie efface la dette algérienne”, Radio France International, March 10 2006.
- ▲ Gordon, Raymond G., Jr. (ed.), 2005. Ethnologue: Languages of the World, Fifteenth edition. Dallas, Tex.: SIL International. Online version: http://www.ethnologue.com/ (accessed 04 April, 2006)
- ▲ Tahar Djaout French Publishers' Agency and France Edition, Inc. (accessed 04 April, 2006)
- ▲ Mohammed Khadda official site (accessed 04 April, 2006)
- ▲ M'Hamed Issiakhem -Algérian painter people.africadatabase.org (accessed 04 April, 2006
[sửa] Liên kết ngoài
Chính phủ
- El Mouradia official presidential site (in French and Arabic)
- National People's Assembly official parliamentary site
- The Embassy of Algéria in Washington, DC
Tin tức
- Algéria News & Events
- Algérian Press Service
- allAfrica.com - Algéria news headline links
- The North Africa Journal business news
Tổng quan
- Tiêu bản:CIA World Factbook link
- Library of Congress - Country Study: Algéria data as of December 1993
- OECD DEV/AfDB - Country Study: Algéria
- Open Directory Project - Algéria directory category
- Algéria: The Psychos Will Inherit the Earth - an irreverent look at Algéria's military situation
Du lịch
- Tiêu bản:Wikitravel
Khác
- Algéria Watch human rights organization critical of widespread torture practiced by the régime (in French)
- Algéria’s past needs opening, not closing Analysis on the public referendum held 29 September 2005 by Veerle Opgenhaffen and Hanny Megally
- all City of Algéria
- Algérian-English Online Dictionary
Di sản văn hoá
- Fabio Maniscalco (ed.), Protection of cultural property in Algerie, monographic series "Mediterraneum. Protection and valorization of cultural heritage", vol 3, Naples 2003, ISBN 88-87835-41-1
Các nước châu Phi | |
---|---|
Ai Cập | Algérie | Angola | Bénin | Botswana | Burkina Faso | Burundi | Cabo Verde | Cameroon | Comores | Cộng hoà Congo | Cộng hoà Dân chủ Congo | Côte d'Ivoire | Djibouti | Eritrea | Ethiopia | Gabon | Gambia | Ghana | Guiné-Bissau | Guinea Xích Đạo | Guinée | Kenya | Lesotho | Liberia | Libya | Madagascar | Malawi | Mali | Maroc | Mauritanie | Mauritius | Mozambique | Namibia | Cộng hòa Nam Phi | Niger | Nigeria | Rwanda | São Tomé và Príncipe | Sénégal | Seychelles | Sierra Leone | Somalia | Somaliland | Sudan | Swaziland | Tanzania | Tây Sahara | Tchad | Togo | Cộng hoà Trung Phi | Tunisia | Uganda | Zambia | Zimbabwe |
|
Các lãnh thổ phụ thuộc: Quần đảo Canary | Ceuta và Melilla | Quần đảo Madeira | Mayotte | Réunion | Quần đảo Saint Helena |
Tiêu bản:Liên đoàn Ả rập
Tiêu bản:Các nước và vùng lãnh thổ Châu Phi
Các nước ở Địa Trung Hải |
---|
Ai Cập | Albania | Algérie | Bosna và Hercegovina | Bulgaria1 | Bồ Đào Nha | Croatia | Dải Gaza | Hy Lạp | Kypros (Síp) | Israel | Liban | Libya | Malta | Maroc | Monaco | Montenegro |Pháp | Romania1 | Serbia | Slovenia | Syria | Tunisia | Thổ Nhĩ Kỳ | Tây Ban Nha | Ý |
1. Không giáp Địa Trung Hải nhưng có khí hậu và động thực vật vùng Địa Trung Hải. |
Tiêu bản:G15