Miền Nam Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Miền Nam Việt Nam là một khái niệm để chỉ vùng lãnh thổ ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo thời điểm lịch sử hoặc thói quen sử dụng mà khái niệm này được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ khác nhau.
[sửa] Một số khái niệm thường được dùng
- hhhhhhDựa trên cách phân chia vùng theo địa lý kinh tế thì miền Nam Việt Nam, còn được gọi là Nam Bộ, bao gồm các tỉnh ở phía nam Tây Nguyên và phía tây tỉnh Ninh Thuận. Vùng lãnh thổ này còn được chia thành 2 vùng lãnh thổ nhỏ là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Khái niệm này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Đây là cách chia Việt Nam thành 3 miền: Bắc (Bắc Bộ), Trung (Trung Bộ) và Nam (Nam Bộ).
- Từ năm 1945, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16. Khái niệm này bắt nguồn từ thỏa thuận của các nước Đồng Minh về việc giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương thì vùng lãnh thổ Việt Nam được chia làm 2 phần, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới. Vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16 do quân Anh cai trị, về sau giao cho Pháp. Khái niệm này rất ít dùng.
- Từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thành lập Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, do ông Nguyễn Sơn làm Chủ tịch, ông Hoàng Quốc Việt làm Ủy viên chính trị. Tuy nhiên, khi đó Nam Bộ đã có Ủy ban Hành chính riêng, nên địa bàn quản lý của Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam gồm vùng đất sau này là Liên khu 5, tính từ các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi vào các tỉnh cực nam Trung Bộ, như Bình Thuận cùng với Tây Nguyên. Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng trụ sở tại thị xã Quảng Ngãi.
- Từ năm 1954 trở đi, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ do chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, kể từ phía nam vĩ tuyến 17, với ranh giới tự nhiên là sông Bến Hải, nay thuộc tỉnh Quảng Trị. Khái niệm này bắt nguồn từ Hiệp định Genève năm 1954 quy định vùng lãnh thổ tạm thời của 2 bên tham chiến tại Việt Nam. Ranh giới này tồn tại đến tận năm 1976 thì bị hủy bỏ, nhưng khái niệm này vẫn còn được sử dụng nhiều trong dân gian và các tài liệu văn bản. Khái niệm này được dùng trong các tên gọi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
[sửa] Các tên gọi khác
[sửa] Đàng Trong
Tên gọi này bắt nguồn từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, với ranh giới xác định là ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn nên mới có tên gọi này. Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng lãnh thổ này.
[sửa] Nam Hà
Tên gọi Nam Hà xuất hiện cùng thời với tên gọi Đàng Trong. Nó có nghĩa đơn giản là "ở phía nam con sông", ở đây hàm ý chỉ con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít sử dụng phổ biến như tên gọi Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam.
[sửa] Gia Định
Gia Định ban đầu chỉ là cái tên để chỉ vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam vào năm 1698, sau mở rộng dần đến năm 1779 thì được dùng để chỉ toàn bộ vùng tương ứng với Nam Bộ hiện nay. Để tương ứng với đơn vị hành chính Bắc Thành ở phía Bắc, từ năm 1802, vua Gia Long đã đặt ra Gia Định Trấn để cai quản vùng lãnh thổ từ Bình Thuận trở vào, gồm 5 trấn. Do dễ có sự nhầm lẫn nên từ năm 1808 đã được đổi tên là Gia Định Thành. Đứng đầu đơn vị hành chính này là một chức quan Lưu Trấn, sau 1808 đổi thành Tổng trấn. Vị Tổng trấn nổi tiếng nhất của Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt. Gia Định Thành tồn tại mãi đến năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt mất và vua Minh Mạng quyết định giải thể Gia Định Thành.
[sửa] Nam Kỳ
Nam Kỳ là tên gọi từ năm 1832, dùng để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quyền cai quản của Gia Định Thành trước kia. Do vua Minh Mạng chia vùng lãnh thổ này thành 6 tỉnh trực tiếp đặt dưới quyền cai quản của triều đình, nên nó còn có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.
Danh xưng Nam Kỳ quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) được người Pháp dùng để chỉ một quốc gia do họ lập nên vào năm 1946, về danh nghĩa cai quản vùng lãnh thổ Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 16. Tuy nhiên, quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và chỉ đến năm 1948 thì bị khai tử.
[sửa] Nam Bộ
Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Đế quốc Việt Nam. Song song với quá trình thanh lập chính phủ, vua Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ.
Tên gọi Nam Bộ được sử dụng lâu dài cho đến ngày nay.
[sửa] Nam Phần
Tên gọi Nam Phần ra đời vào khoảng năm 1948, sau khi chính phủ Nam Kỳ quốc giải tán, và chính phủ lâm thời Nam phần Việt Nam được thành lập. Sau khi chính phủ Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký thỏa ước thành lập Quốc gia Việt Nam, theo đó lãnh thổ Việt Nam được phân thành 3 đơn vị hành chính cấp Phần, là một cấp cao hơn tỉnh, đứng đầu là một Thủ hiến do Quốc trưởng chỉ định. Vùng lãnh thổ Nam Phần tương ứng với vùng lãnh thổ của Nam Bộ vào năm 1945.