Thượng tướng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thượng tướng là quân hàm sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang một số nước như Nga, Trung Quốc, Việt Nam...
Quân hàm Thượng tướng của Việt Nam (mang 3 sao) trong cả Quân đội và Công an là một quân hàm ở dưới Đại tướng, trên Trung tướng, được quy định lần đầu tiên vào năm 1958, tương đương Генерал-полковник (Quân đội Nga) và thường được dịch sang tiếng Anh là Senior Lieutenant-General, đôi khi cũng dịch là Colonel General.
Ở các nước phương Tây, cũng như trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước đây, không có cấp Thượng tướng.
Mục lục |
[sửa] Quân đội Trung Quốc
Ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện nay, Thượng tướng là cấp bậc cao nhất, được dịch sang tiếng Anh là General. Trước kia (1955-1965) còn có hai cấp sĩ quan cao hơn là Đại tướng và Nguyên soái. Sau khi phục hồi hệ thống cấp bậc trong quân đội Trung Quốc vào năm 1988 thì Thượng tướng cấp I (一级上将 Nhất cấp Thượng tướng hay Yi Ji Shang Jiang; tiếng Anh: General, 1st Class với 4 sao) là cấp bậc cao nhất. Cấp bậc này bị bãi bỏ năm 1994, nên cấp Thượng tướng (上将 Shang Jiang với 3 sao) trở thành cấp bậc cao nhất.
Thượng tướng của Trung Quốc thường đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh đại quân khu, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên hoặc Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương.
[sửa] Quân đội Nhân dân Việt Nam
Thượng tướng của Việt Nam thường đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh hoặc Phó Tư lệnh quân khu, quân chủng, Chủ nhiệm hoặc Phó Chủ nhiệm Tổng cục của Quân đội, Tổng Tham mưu trưởng hoặc Phó Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Đây là cấp cao nhất của một quân chủng.
Hai Thượng tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam là Văn Tiến Dũng (sau này được thăng Đại tướng) và Chu Văn Tấn, được phong năm 1958.
Trong lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam, quân hàm tương đương là Đô đốc, cấp cao nhất của hải quân. Quân hàm Đô đốc được quy định lần đầu tiên trong luật ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981.
Xem Danh sách các Thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
[sửa] Một số Thượng tướng tiêu biểu
- Chu Văn Tấn, chỉ huy Cứu quốc quân
- Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam
- Trần Nam Trung
- Giáp Văn Cương, Đô đốc Hải quân Nhân dân đầu tiên của Việt Nam.
- Đinh Đức Thiện
- Phùng Thế Tài
- Nguyễn Hữu An(người chỉ huy chiến dịch Ia-đrăng, sau là Giám đốc Học viện Quốc phòng)
- Hoàng Minh Thảo
- Hoàng Cầm
- Nguyễn Minh Châu
- Đào Đình Luyện (nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân)
- Lê Khả Phiêu (nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản)
- Phạm Thanh Ngân (nguyên Tư lệnh Quân chủng Không quân, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị)
- Trần Văn Quang (nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng)
- Lê Quang Hòa
- Song Hào (nguyên Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương binh - Xã hội)
- Vũ Lăng(nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, nguyên Tư lệnh quân đoàn 3)
- Phùng Quang Thanh (đương kim Bộ trưởng Bộ Quốc phòng)
- Nguyễn Huy Hiệu (Thứ truởng Bộ Quốc phòng)
- Lê Văn Dũng (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị)
- Nguyễn Nam Khánh (nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị)
[sửa] Công an Nhân dân Việt Nam
Một số Thượng tướng tiêu biểu:
- Cao Đăng Chiếm
- Bùi Thiện Ngộ
- Lê Minh Hương
- Lê Thế Tiệm
- Nguyễn Văn Hưởng
- Nguyễn Khánh Toàn
- Nguyễn Văn Tính
[sửa] Thời phong kiến ở Việt Nam
Ngoài ra, Thượng tướng còn là một chức quan võ trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến, nhưng không phải thuộc hàng cao cấp nhất. Ví dụ như nhà Lý (1009-1225) chia các chức quan võ như sau: Đô thống, Nguyên súy, Tổng quản, Khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Tả hữu kim ngô, Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, Tướng quân các vệ, chỉ huy sứ, vũ vệ, hỏa đầu, các binh tào Vũ Tiệp và Vũ Lâm. Các chức quan võ này đều thấp hơn Thái úy và nội ngoại Hành điện Đô trị sự, Kiểm hiệu Bình chương sự.
Phẩm trật các hàng quan võ đều có chín bậc (nhất phẩm, nhị phẩm, v.v) nhưng giữa chức và phẩm trật thì chưa thấy sách nào ghi lại mối tương quan của chúng.
Thời Trần có các Thượng tướng Trần Khát Chân, Trần Quang Khải...