Vũ Lăng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thượng tướng Vũ Lăng (1921–1988) là một trong những vị tướng lập được nhiều chiến công lớn trong những trận đánh quan trọng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông là người đã có công lao to lớn trong chiến thắng của chiến dịch Tây Nguyên mà trận Buôn Ma Thuột là điển hình. Ông quê quán tại xã Ngũ Hiệp, Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
[sửa] Trong kháng chiến chống Pháp
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông là một trong những chiến sĩ Nam tiến đầu tiên chiến đấu ở mặt trận Nha Trang-Ninh Hòa. Vào ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Vũ Lăng là quyết tử quân của trung đoàn Thủ đô, tham gia chiến đấu bảo vệ Bắc bộ phủ. Sau cuộc rút lui an toàn không mất một người lính, một khẩu súng nào vào đêm 17 tháng 2 năm 1947 của trung đoàn Thủ đô ra vùng tự do, Vũ Lăng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102), đại đoàn 308. Ông đã chỉ huy tiểu đoàn trong trận hạ đồn Đại Bục, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh năm 1949. Từ năm 1953 ông là trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy đã thắng trong trận đánh đồi C1 góp phần quan trọng vào chiến thắng của chiến dịch.
[sửa] Kháng chiến chống Mỹ
Trong kháng chiến chống Mỹ, Vũ Lăng đã giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội như Tham mưu trưởng Sư đoàn 316 rồi Cục phó cục khoa học Quân sự Bộ tổng Tham mưu, phó Tư lệnh quân khu 4, Cục phó rồi Cục trưởng Cục tác chiến, Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên rồi tư lệnh quân đoàn 3.
Trên cương vị là Cục trưởng Cục tác chiến bộ tổng tham mưu, rồi là phó Tư lệnh và Tư lệnh mặt trận Tây nguyên, Vũ Lăng đã xây dựng phương án tác chiến, tham mưu chỉ huy và đã dành được thắng lợi trong trận Buôn Ma Thuột giải phóng Tây Nguyên, tạo ra bước đột phá quan trọng trong việc thống nhất Việt Nam. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, mùa xuân năm 1975, ông là tư lệnh Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) có nhiệm vụ tấn công từ hướng Tây Bắc, tiêu diệt Sư đoàn 25 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, sau đó tiếp tục đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Quân đoàn 3 dưới sự chỉ huy của ông đã nhanh chóng bao vây chia cắt, đập tan mọi sự kháng cự của Sư đoàn 25, và vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 và đã giương cao lá cờ của quân đoàn trên nóc tòa nhà bộ tư lệnh không quân của quân đội Sài Gòn tại sân bay Tân Sơn Nhất.
[sửa] Huân, huy chương
Sau ngày Việt Nam thống nhất, ông được giao trọng trách Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt(1977-1988).
Do những công lao trong 2 cuộc kháng chiến, Thượng tướng Vũ Lăng đã được thưởng nhiều huân chương cao quý:
- Huân chương Độc lập hạng nhất
- Ba huân chương Quân công (2 hạng nhất, 1 hạng 3)
- Huân chương Chiến thắng hạng nhất
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất
- Ba huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng nhất, nhì, ba)
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Vũ Lăng |
Tên khác | |
Tóm tắt | Thượng tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam |
Lúc sinh | 1921 |
Nơi sinh | |
Lúc mất | 1988 |
Nơi mất |