Tư Mã Thiên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tư Mã Thiên (145 TCN? – 90 TCN?), tên tự là Tử Trường, là tác giả bộ Sử ký (史記); với bộ sử đó, ông được coi là cha đẻ của sử học Trung Hoa.
Ông làm chức Thái Sử Lệnh (太史令) rồi Trung Thư Lệnh, đời nhà Hán. Sử ký Tư Mã Thiên là một bộ sử vĩ đại miêu tả tổng quát về lịch sử Trung Quốc bao trùm 2000 năm từ Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế (漢武帝). Công trình này là nền tảng cho các phát triển sau này trong sử học Trung Hoa.
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Tư Mã Thiên, sinh ở Long Môn (nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), chưa biết chắc năm nào. Có người bảo là năm 163 trước Công Nguyên, nhưng đa số các học giả cho rằng vào khoảng năm 145 TCN thì đúng hơn. Ông sống thời thơ ấu ở Long Môn, trong một gia đình có truyền thống làm sử. Hai chữ Tư Mã có từ đời nhà Chu và dùng để gọi một chức quan võ coi tất cả các việc binh trong nước, tức là chức Binh bộ Thượng thư đời sau. Đời Chu Tuyên Vương (827-780) một người giữ chức đó, có công, được vua cho phép lấy chức làm tên họ. Sau đó họ Tư Mã có vài người làm sử quan ở triều Chu. Đời nhà Tần có tướng giỏi là Tư Mã Thác. Cha của Tư Mã Thiên (Tư Mã Đàm) là cháu tám đời của Tư Mã Thác. Từ nhỏ, Tư Mã Thiên đã được học nhiều sách văn học và sử học thời đó, như Tả Truyện, Quốc Ngữ, Thế Bản... Ông đã là học trò của một số nhà Nho học như Khổng An Quốc (孔安國) và Đổng Trọng Thư (董仲舒).
Năm 20 tuổi, nhờ sự hỗ trợ của cha, Tư Mã Thiên đã bắt đầu chuyến du hành vòng quanh đất nước, thu thập các tài liệu và bằng chứng lịch sử. Mục đích của chuyến đi là để kiểm chứng các lời đồn đại và truyền thuyết và để thăm viếng các di tích lịch sử, như mộ Đại Vũ. Ông đã đi qua Sơn Đông, Vân Nam, Hà Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Giang Tây, Hồ Nam...
Sau chuyến đi trở về, ông được chọn làm Lang Trung (郎中, Lang Zhong) trong chính quyền, với nhiệm vụ đi kiểm tra từng địa phương cùng Hán Vũ Đế (vào khoảng từ 122 TCN đến 116 TCN). Sau ông được phụng sứ đi thanh tra các miền Ba Thục, Cung, Tạc, Côn Minh tức những miền mà nhà Hán mới chinh phục được ở phía Tây Nam. Phía Bắc ông lên tới Vạn Lý Trường Thành và Sóc Phương. Năm 110 TCN, sau cuộc tuần du, cha ông lâm bệnh và gọi Tư Mã Thiên về để nối nghiệp. Tư Mã Đàm có ước nguyện viết tiếp Xuân Thu Tả Thị Truyện (春秋左氏傳). Kế nghiệp cha, ông nhận chức Thái Sử Lệnh. Chức đó vừa giữ việc chép sử vừa coi về thiên văn, làm lịch, nhưng là một chức nhỏ, bị coi thường. Năm 104 TCN, ông cùng một vài người nữa, sửa lại lịch. Ông thu thập hết tài liệu trong các sách của thư viện triều đình.
Năm 99 TCN, ông bị vướng vào vụ Lý Lăng (李陵). Lý Quảng Lợi (李廣利) và Lý Lăng, hai quan võ, đã không hoàn thành nhiệm vụ trong một cuộc chiến với Hung Nô (匈奴) ở miền Bắc. Hán Vũ Đế và đa số các quan trong triều cho rằng tội trạng thuộc về Lý Lăng. Chỉ mình Tư Mã Thiên bênh vực vị tướng này. Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên, qua việc bảo vệ Lý Lăng, đã ngầm chê Lý Quảng Lợi, anh vợ của Vũ Đế, là nhút nhát. Tư Mã Thiên bị tội tử hình, nếu không chuộc bằng tiền bạc hoặc bị cung hình (thiến). Do không đủ tiền chuộc, ông đành chọn bị thiến và bị cầm tù.
Sau khi ra tù, Tư Mã Thiên được làm Trung Thư Lệnh, đây là chức quan to, ở gần vua, được ra vào cung cấm, xem các tài liệu mật, chức này chỉ dành cho hoạn quan. Thỉnh thoảng ông được đi theo vua trong các cuộc tuần du. Không được giữ chức Thái Sử nữa, lại luôn cảm thấy nhục nhã vì hình phạt, ông dồn tất cả tâm sức cho bộ Sử Ký và hoàn thành nó năm 97 TCN (có sách nói là năm 91 TCN, lúc ông trên 55 tuổi).
Không ai để ý tới ông cả và ông mất năm nào cũng không biết rõ, chỉ đoán được phỏng chừng vào năm 90 TCN.
[sửa] Cống hiến
Một số cách viết tên Tư Mã Thiên | ||
---|---|---|
Tên riêng | Tên tự | |
Chữ phồn thể | 司馬遷 | 子長 |
Chữ giản thể | 司马迁 | 子长 |
Pinyin | Sīmǎ Qiān | Zichang |
Wade-Giles | Ssŭma Ch'ien | Tzu-ch'ang |
Hán-Việt | Tư Mã Thiên | Tử Trường |
[sửa] Trong sử học
- Xem thêm Sử ký Tư Mã Thiên
Quyển Sử Ký được Tư Mã Thiên viết hoàn toàn do niềm đam mê lịch sử, một truyền thống của gia đình, chứ không nhằm mục đích đạt danh tiếng. Nó được lưu giữ, ít người biết, cho đến thời cháu ngoại của ông là Dương Vận (Dương Uẩn?), thì mới được công bố gọi là Thái Sử Công Thư Chí. Tên Sử Ký là tên đặt sau này.
Nó đã xây dựng một phong cách viết sử mà sau này trở thành "khuôn mẫu chính thức" cho tài liệu lịch sử Trung Hoa. Trong Sử Ký, Tư Mã Thiên trình bày các sự kiện theo chuỗi kèm theo chú giải, nguồn tham khảo. Công trình này gồm 526.500 chữ, 130 thiên; không theo trình tự thời gian, mà theo 5 chủ đề, bao gồm bản kỷ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện; viết về nhiều lĩnh vực của xã hội gồm âm nhạc, lễ hội, lịch, tín ngưỡng, kinh tế; kèm theo một nguồn tham khảo lớn. Trước ông, lịch sử được viết dành cho triều đình. Phong cách viết sử mở rộng cho nhiều mặt của xã hội trong Sử Ký sau này ảnh hưởng đến Trịnh Tiều (鄭樵 - Zhèngqiáo) khi viết Thông sử (通史 - Tongshi) hay Tư Mã Quang (司馬光 - Sima Guang) khi viết Tư trì thông giám (資治通鑑 - Zizhi Tongjian). Phong cách này còn ảnh hưởng đến cách viết sử của các nước láng giềng, như Triều Tiên.
[sửa] Trong văn học
Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng đã được coi như hình mẫu cho văn học miêu tả chân dung nhân vật và sự kiện tại Trung Hoa. Nó được các nhà phê bình coi là có "trình độ miêu tả điêu luyện" (như phương pháp đàm thoại khiến các miêu tả thêm sống động), "phong cách sáng tạo" (ngôn ngữ bình dân, dí dỏm và phong phú, như tác phẩm thơ không vần), "súc tích" (cách viết chỉ miêu tả những điểm cốt yếu, ngắn gọn dễ hiểu)...
Phong cách viết trong Sử Ký có ảnh hưởng trong phong cách văn học Trung Hoa thời kỳ nhà Đường, nhà Tống và sau này. Ngoài Sử Ký, Tư Mã Thiên còn viết 8 bài thơ trào phúng (賦), trong số đó có bài nói về sự chịu đựng của ông trong vụ Lý Lăng và bài nói về niềm đam mê viết Sử Ký.
[sửa] Trong thiên văn học
Tư Mã Đàm và Tư Mã Thiên, đều là các nhà chiêm tinh (太史) của triều đình nhà Hán. Đây là chức vụ quan trọng, có nhiệm vụ giải nghĩa và tiên đoán các việc triều chính trong sự hài hòa với chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, cùng các hiện tượng tự nhiên khác như nhật thực, động đất, ...
Năm 104 TCN, trước khi viết Sử Ký, Tư Mã Thiên cùng Công Tôn Khanh Hồ Toại và đồng nghiệp khác sửa lại lịch cũ, chế định Hán lịch. Lịch này có độ chính xác cao nhất vào thời đó, xác định một năm có 365,25 ngày và một tháng có 29,53 ngày. Đây được coi là một cuộc cách mạng trong lịch sử làm lịch của Trung Hoa. Âm lịch ngày nay cũng dựa trên công trình này.
[sửa] Tham khảo
Sử ký của Tư Mã Thiên là một tác phẩm đồ sộ, vì thế một số bản dịch ra Việt ngữ chỉ có thể chọn lọc những phần chính yếu mà người dịch cho rằng người đọc Việt quan tâm nhất. Chưa có bản dịch toàn văn bộ Sử ký của Tư Mã Thiên.
Tiếng Việt:
- Sử ký Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn học.
- Sử ký Tư Mã Thiên, Nhữ Thành dịch, Nxb Văn học.
- Sử ký Tư Mã Thiên, Nhượng Tống dịch, Nxb Tân Việt,Hà Nội 1944.
Tiếng Anh:
- Watson, Burton (1958). Ssu-ma Ch'ien: Grand Historian of China. New York: Columbia University Press.
- Qian, Sima and trans. Watson, Burton (1993),Records of the Grand Historian: Han Dynasty. Research Center for Translation, The Chinese University of Hong Kong and Columbia University Press.
- Durrant, Stephen W.(1995), The cloudy mirror : tension and conflict in the writings of Sima Qian. Albany : State University of New York Press.
- Hardy, Grant Ricardo (1988), Objectivity and Interpretation in the "Shi Chi". Yale University.
- Watson, Burton (1958). Ssu-ma Ch'ien: Grand Historian of China. New York: Columbia University Press.
[sửa] Liên kết ngoài
Tiếng Việt:
- Sử ký Tư Mã Thiên trên Việt Nam Thư Quán, dịch giả Nhữ Thành
- Sử ký, Nhữ Thành dịch
Tiếng Anh: