Bò xám
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bò xám (Bos sauveli) là động vật hoang dã thuộc họ Bovidae cư ngụ chủ yếu trong các vùng rừng núi thuộc miền bắc Cam pu chia, nam Lào, đông Thái Lan và tây Việt Nam. Chúng được phát hiện năm 1937.
Bò xám Tình trạng bảo tồn: Cực kỳ nguy cấp |
||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phân loại khoa học | ||||||||||||||||
|
||||||||||||||||
Tên khoa học | ||||||||||||||||
Bos sauveli (Urbain, 1937) |
Mục lục |
[sửa] Đặc điểm
Bò xám đực có thể dài tới 2 m và nặng từ 680 tới 900 kg (1.500 - 2.000 lb). Chúng có thân dài nhưng dẹt, chân dài và có bướu trên lưng. Bò xám có lông màu xám, nâu đen hay đen. Cặp sừng của bò xám cái có hình dạng như chiếc đàn lia, cong về phía trên giống như sừng linh dương. Cặp sừng của con đực vòng hình cung rộng hơn và cong về phía trên cũng như về phía trước. Cả hai giới đều có lỗ mũi hình chữ V và đuôi dài. Bò xám có hai ngón chân móng guốc ở phần trung tâm của phần móng guốc. Ngón chân trỏ và ngón út là móng guốc nhỏ hơn, gần với xương mắt cá chân. Bò xám đực có yếm dài tới 40 cm (16 inch). Trong điều kiện tự nhiên chúng có thể sống tới 20 năm.
[sửa] Khu vực sinh sống
Bò xám sinh sống trên những sườn đồi thấp và ăn cỏ. Chúng là loài động vật ăn cả ngày lẫn đêm, ban đêm chúng ăn cỏ trong những khu vực rộng rãi ngoài trời và ban ngày chúng ăn cỏ dưới những cánh rừng. Chúng sống thành bầy đàn tới 20 con, chủ yếu là bò cái trưởng thành và bê con nhưng trong mùa khô thì có cả bò đực.
[sửa] Sinh sản
Bò xám cái mang thai từ 8 đến 9 tháng, thời gian động đực và giao phối của chúng là vào khoảng tháng 4 hàng năm. Bê con và bò mẹ thông thường sống tách khỏi đàn cỡ 1 tháng ngay sau khi sinh.
[sửa] Quần thể hiện tại
Hiện nay, theo một số nguồn thì không còn quá 250 con bò xám trên toàn thế giới, chủ yếu ở Cam pu chia, ở Thái Lan, Lào, Việt Nam có lẽ đã tuyệt chủng. Sự suy giảm số lượng của chúng có lẽ chủ yếu là do việc săn bắn không thể kiểm soát được của những người dân địa phương cũng như những người lính trong chiến tranh Đông Dương cũng như do bệnh tật do gia súc truyền sang hay sự mất dần khu vực sinh sống bởi sự đốt rừng làm nương rẫy của con người.
- Thế giới:
- Đầu những năm 1900: Khoảng 2.000 (Curry-Lindahl 1972)
- 1938: 800 (Humphrey & Bain 1990)
- 1940: 1000 (Burton & Pearson 1987)
- 1951: 500 (Humphrey & Bain 1990)
- 1964: 300 (Humphrey & Bain 1990)
- 1969: 100 (Curry-Lindahl 1972)
- 1970: 30 - 70 (Fitter 1974)
- 1975: 50 (Humphrey & Bain 1990)
- 1984: Có lẽ chỉ còn một vài chục con (Macdonald 1984)
- 1986: Ít hơn 200 (Oryx 1986d)
- 1988: 50 - 100 (Oryx 1988b)
- 1988: 100 - 300 (WCMC/WWF 1997)
- 1995: Vài chục con (Hendrix, 1995)
- 2000: Nói chung được cho là ít hơn 250 (IUCN 2000)
- 2003: Nói chung được cho là ít hơn 250 (IUCN 2004)
- Cam pu chia:
- 1952: 500 (IUCN 1968)
- 1959: 200 (Lekagul 1967)
- 1964: 200 (IUCN 1968)
- 1988: Ít hơn 200 (WCMC 1994)
- Lào:
- 1988: 40 - 100 (WCMC 1994)
- Việt Nam:
- 1988: 30 (WCMC 1994)