Lưu Hữu Phước
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lưu Hữu Phước (1921-1989) là một trong những nhạc sĩ tiên phong của tân nhạc Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Thời trẻ và bước đầu tham gia cách mạng
Lưu Hữu Phước còn có những bút danh khác: Huỳnh Minh Siêng, Long Hưng, Anh Lưu, Hồng Chí. Ông sinh ngày 12 tháng 9 năm 1921 tại Ô Môn, Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Hậu Giang. Thuở nhỏ được cha cho học đàn kìm, về sau có chơi cả mandoline, guitare và tự học lý thuyết âm nhạc.
Khoảng cuối thập niên 1930, ông lên Sài Gòn học tại trường Petrus Ký. Trong thời gian này, ông kết thân với Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, làm thành bộ 3 Huỳnh - Mai - Lưu, thành lập Câu lạc bộ Học sinh (Scholar Club) trường trung học Petrus Ký ... là đầu mối hội tụ những học sinh, sinh viên yêu nước. Cũng trong thời gian này, ông sáng tác bài hát La Marche des Étudiants vào cuối năm 1939, và được Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ.
Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường Y - Dược, thuộc Đại học Đông Dương (1940-1944). Thời này, do ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Bình dân nên phong trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào, và có dịp tiếp xúc với một số thành viên của Việt Minh. Trong những đợt tổ chức các hoạt động về nguồn của sinh viên, Lưu Hữu Phước đã sáng tác được nhiều ca khúc nổi tiếng như "Bạch Đằng Giang", "Ải Chi Lăng", "Hát giang trường hận" (sau đổi tên là "Hồn tử sĩ"), "Hờn sông Gianh", "Người xưa đâu tá" và "Hội nghị Diên Hồng", được xem là đỉnh cao của thể loại bài hát về đề tài lịch sử của Việt Nam, nhằm hun đúc tình thần dân tộc cho thanh niên Việt Nam.
Nhân cuộc hành hương về Đền Hùng nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương năm 1942, nhằm thức tỉnh sinh viên từ bỏ mộng học giỏi đỗ cao để làm quan cho thực dân Pháp, đồng lòng quyết tâm trau dồi ý thức cứu dân, cứu nước, sẵn sàng tiến lên "đáp lời sông núi" khi Tổ quốc cần, ông đã sửa phần lời Việt của bài La Marche des Étudiants thành bài "Tiếng gọi sinh viên", biểu diễn dưới chân núi Nghĩa Lĩnh do một dàn hợp xướng mấy chục người trình diễn. Không lâu sau, bài hát trở nên phổ biến từ Bắc chí Nam với tên gọi "Tiếng gọi thanh niên".
Bên cạnh đó, ngày 21 tháng 3 năm 1943, vở ca kịch "Tục lụy" của ông được trình diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội. Cái tên Lưu Hữu Phước trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Việt Nam thời bấy giờ.
Năm 1944, Lưu Hữu Phước được Mặt trận Việt Minh giao nhiệm vụ vào Nam tham gia vận động cách mạng cùng với lúc nổ ra phong trào của đông đảo sinh viên ba miền Nam - Trung - Bắc rủ nhau bỏ học để trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng. Nhóm Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Đặng Ngọc Tốt trong một đêm đã tập trung soạn ba bài hát: "Xếp bút nghiên", "Mau về Nam" và "Gieo ánh sáng" để kịp thời cổ vũ cho phong trào này, còn được gọi là phong trào Xếp bút nghiên, rầm rộ kéo dài đến mãi tận ngày khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 cùng với sự ra đời của bài ca "Khúc khải hoàn" của ông mang đậm phong cách ngợi ca, hoành tráng...
[sửa] Tham gia công tác văn nghệ
Sau khi Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Lưu Hữu Phước tham gia công tác tuyên truyền với chức vụ Giám đốc phòng xuất bản Nam Bộ trong một thời gian ngắn. Tháng 5 năm 1946, Lưu Hữu Phước được điều động ra Hà Nội, nhận nhiệm vụ thành lập Trung ương Nhạc viện (tháng 9 năm 1946), sau đó ông cùng tập thể Hội Văn hoá Cứu quốc tản cư đi kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc. Ông được giao nhiệm vụ thành lập đội Thiếu nhi tuyên truyền xung phong, sau được đổi tên là Đoàn nhạc kịch Thiếu nhi kháng chiến thuộc Trung ương Nhạc viện. Đoàn đã lần lượt trình diễn một số vở ca kịch do ông sáng tác như "Con thỏ ngọc", "Diệt sói lang", "Phá mưu bù nhìn", "Hai chàng lưng gù" và "Hái hoa dâng Bác" nhân kỷ niệm 60 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1950, ông được giao nhiệm vụ thành lập Trường Thiếu nhi Nghệ thuật và được cử làm Giám đốc.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông là tác giả của nhiều tác phẩm âm nhạc như "Ca ngợi Hồ Chủ Tịch", "Đông Nam Á châu đại hợp xướng", "Tuổi hai mươi", "Thiếu nhi thế giới liên hoan", "Nông dân vươn mình", "Hăngri Máctanh", "Em yêu chị Rây-mông", "Cả cuộc đời về ta"...
Từ năm 1954 đến 1965, ông làm Trưởng Ban Nghiên cứu Nhạc - Vũ thuộc Vụ Nghệ thuật, Bộ Văn hoá, sau đó làm Vụ trưởng Vụ Âm nhạc và Múa, ngoài ra còn được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ban Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông cũng có công tổ chức sưu tầm dân ca và đã cho ra đời công trình nghiên cứu "Dân ca quan họ"; thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam đầu tiên của nước ta (nay là Nhạc viện Hà Nội), Trường Múa, Trường Sân khấu Điện ảnh, Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc Vũ Kịch Việt Nam.
Tháng 2 năm 1965, Lưu Hữu Phước được cử vào Nam, giữ chức Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng, sau đó Bộ trưởng Bộ Thông tin Văn hoá của Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn này, ông đã sáng tác các bài hát nổi tiếng như "Bài hát Giải phóng quân", "Giờ hành động", "Hành khúc giải phóng", "Xuống đường", "Tiến về Sài Gòn", đặc biệt là "Giải phóng miền Nam" được xem là bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1975, ông trở về làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc (1978-1989), được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Âm nhạc Quốc gia, Thành viên Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, ngoài ra còn là Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, Phó chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Ông mất năm 1989 tại TP.HCM.
[sửa] Sự nghiệp âm nhạc
Lưu Hữu Phước được xem là một trong những nhạc sĩ đầu đàn của giới nhạc sĩ Việt Nam, đại diện cho phái âm nhạc Nam Bộ trong thời điểm khởi đầu của nền tân nhạc. Sở trường của ông là về hành khúc, đặc biệt có rất nhiều tác phẩm của ông được sử dụng như là bài hát chính thức như:
- Tiếng gọi Thanh niên: Bài hát chính thức của tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau được Việt Nam Cộng hòa sửa lời và chọn làm Quốc ca với tên Tiếng gọi công dân.
- Lên đàng: Bài hát chính thức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
- Hồn tử sĩ: Bài hát được dùng trong các lễ tang theo nghi thức nhà nước của Việt Nam.
- Ca ngợi Hồ Chủ tịch: Được xem là bài Lãnh tụ ca tại Việt Nam hiện nay.
- Giải phóng miền Nam: Bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Với những đóng góp của ông vào nền âm nhạc Việt Nam, ông đã được chính quyền Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, trong đó có Huân chương Độc lập hạng nhất (1987), giải thưởng Hồ Chí Minh (1996)
[sửa] Các tác phẩm
- Ải Chi Lăng
- Bạch Đằng Giang
- Bài ca giải phóng quân
- Bạn đường đi hội đền Hùng
- Gieo ánh sáng
- Hội nghị Diên Hồng
- Hờn sông Gianh (1944)
- Hồn tử sĩ
- Hương Giang dạ khúc
- Hương Lộ tiểu khúc
- Khúc khải hoàn
- Kinh Cầu Nguyện
- Lên đàng
- Lục quân Trần Quốc Toản
- Lời ru chim Lạc
- Reo vang bình minh
- Thanh niên sẵn sàng
- Thiếu nhi thế giới vui liên hoan
- Tiếng gọi thanh niên.
- Tuổi 20
- Việt nữ gọi đàn
- Vui xuân
Nhạc kịch
- Tụy lụy (phổ theo Khái Hưng)
- Con Thỏ Ngọc