Ebooks, Audobooks and Classical Music from Liber Liber
a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z





Web - Amazon

We provide Linux to the World


We support WINRAR [What is this] - [Download .exe file(s) for Windows]

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
SITEMAP
Audiobooks by Valerio Di Stefano: Single Download - Complete Download [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Alphabetical Download  [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Download Instructions

Make a donation: IBAN: IT36M0708677020000000008016 - BIC/SWIFT:  ICRAITRRU60 - VALERIO DI STEFANO or
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Erwin Rommel – Wikipedia tiếng Việt

Erwin Rommel

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thống chế Erwin Rommel năm 1942
Thống chế Erwin Rommel năm 1942

Erwin Johannes Eugen Rommel (15 tháng 11, 1891 – 14 tháng 10, 1944) là một trong số các Thống chế nổi bật nhất của quân đội Đức Quốc Xã, và có thể nói là một trong những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại nhất từ trước đến nay. Ông chỉ huy Quân đoàn Phi châu Đức (tiếng Đức: Deutsches Afrika Korps) trong Thế chiến thứ II. Ông được mọi người đặt cho biệt danh là "Con cáo sa mạc" (tiếng Đức: Wüstenfuchs; tiếng Anh: the Desert Fox) vì những chiến dịch quân sự tài tình mà ông tiến hành tại mặt trận Bắc Phi. Ông được mọi người nhớ đến không chỉ bởi lòng dũng cảm phi thường khi tham gia chiến trận, mà còn là bởi vì cách cư xử, tinh thần thượng võ của ông đối với kẻ thù của mình.

Mục lục

[sửa] Cuộc đời và sự nghiệp thuở ban đầu

Thiếu sinh quân Rommel lúc trẻ khoảng năm 1910
Thiếu sinh quân Rommel lúc trẻ khoảng năm 1910

Rommel sinh ra tại Heidenheim an der Brenz, cách Ulm khoảng 50 km, thuộc bang Württemberg. Ông là người con thứ hai của giáo sư Erwin Rommel, hiệu trưởng một trường trung học phổ thông đến hết lớp 10 (tiếng Đức: Progymnasium) theo đạo Tin Lành (Protestant) tại Aalen. Cha của Rommel cùng với Helene von Luz, con gái của một người có chức sắc tại địa phương, đã có thêm ba người con nữa, trong đó có hai người con trai là Karl và Gerhard, và người con gái là Helene. Ở tuổi 14, Rommel và một người bạn của mình đã làm ra một chiếc tàu lượn có thể bay được, tuy không xa lắm. Lúc trẻ, ông có ý định trở thành một kỹ sư hàng không, thế nhưng cha ông lại đặt ông trước sự chọn lựa hoặc là trở thành nhà giáo hay là sĩ quan. Tuân theo ý định của cha mình, ông đã gia nhập vào trung đoàn bộ binh số 124 của bang Württemberg với chức vụ thiếu sinh quân vào năm 1910 và không lâu sau đó, ông được gửi đến trường Thiếu Sinh Quân tại Danzig.

Trong lúc học tại Danzig, đầu năm 1911, Rommel đã gặp người vợ tương lai của mình là Lucie Maria Mollin. Ông tốt nghiệp vào tháng 11 năm 1911 và được phong chức trung úy vào tháng 1 năm 1912. Năm 1916, Rommel làm đám cưới với Lucie và năm 1928 họ có được một người con trai tên là Manfred – người con này về sau trở thành thị trưởng của Stuttgart từ 1974 đến 1996. Hai học giả Bierman và Smith tranh luận rằng, trong khoảng thời gian này, Rommel còn có một mối quan hệ khác với một phụ nữ tên Walburga Stemmer vào năm 1912 và mối tình đó đã đem đến cho hai người một người con gái tên Gertrud (1 p.26).

[sửa] Thế chiến thứ I

Trong Thế chiến thứ I, Rommel phục vụ tại các mặt trận Pháp, RomaniaÝ. Tổng cộng, ông bị thương ba lần và được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt (Iron Cross) cả hạng I và hạng II. Rommel trở thành người trẻ tuổi nhất nhận được huân chương cao nhất của Đế quốc Phổ, Huân chương Pour le Mérite (huân chương này là một vinh dự có tính cách truyền thống chỉ dành cho các vị tướng). Ông nhận được nó sau các trận đánh tại các dãy núi phía đông bắc nước Ý. Phần thưởng này là kết quả từ trận đánh tại Longarone, và việc chiếm giữ được ngọn núi Matajur (ngọn núi này cao 1.650 mét, từ đây có thể quan sát được vùng biển Adriatic) cùng với 150 sĩ quan, 7.000 lính Ý và 81 cây đại bác (trong trận đánh này, Rommel cùng với 100 quân của mình chống lại lực lượng Ý hơn 7.000 người). Rommel cùng với tiểu đoàn của mình cũng đã giữ vai trò chủ chốt trong chiến thắng quyết định tại Central Powers trước quân Ý, trận đánh này diễn ra ở Caporetto (nay là Kobarid thuộc Slovenia).

[sửa] Giữa hai thế chiến

Sau Thế chiến thứ I, Rommel nắm giữ chức chỉ huy tiểu đoàn và là giảng viên tại trường bộ binh Dresden từ 1929 đến 1933, và tại Học viện Chiến tranh Potsdam từ 1935 đến 1937. Các quyển nhật ký chiến tranh của Rommel, "Các cuộc Tấn công bằng Bộ binh" (tiếng Đức: Infanterie greift an), xuất bản năm 1937, đã trở thành cuốn sách giáo khoa quân sự được đánh giá cao, và cũng thu hút được sự chú ý của Adolf Hitler. Cùng năm, Hitler đã giao Rommel huấn luyện cho lực lượng Thanh niên Hitler (tiếng Đức: Hitler Jugend). Năm 1938, lúc này Rommel đã là đại tá, ông được chỉ định là chỉ huy của Học viện Chiến tranh tại Wiener Neustadt. Tại đây, Rommel bắt đầu viết cuốn sách có tựa đề "Xe Tăng trong các cuộc Tấn công" (tiếng Đức: Panzer greift an). Không lâu sau đó, Rommel lại được thuyên chuyển và giao quyền chỉ huy Tiểu đoàn Bảo vệ Quốc trưởng (tiếng Đức: Führer-Begleitbattalion).

[sửa] Thế chiến thứ II

Rommel trong chiến dịch tại Pháp 1940
Rommel trong chiến dịch tại Pháp 1940

[sửa] Ba Lan 1939

Vào mùa thu năm 1938, Hitler chọn Rommel chịu trách nhiệm đơn vị lính Đức bảo vệ ông ta trong các chuyến viếng thăm Tiệp Khắc sau khi đã xâm chiếm nước đó. Trước khi cuộc xâm lược Ba Lan xảy ra, ông được thăng hàm thiếu tướng và chỉ huy trưởng của Tiểu đoàn Bảo vệ Quốc trưởng, chịu trách nhiệm về sự an toàn cho các sở chỉ huy di động của Hitler trong suốt chiến dịch này.

[sửa] Pháp 1940

Năm 1940, ba tháng trước khi cuộc xâm lược diễn ra, Rommel được giao chỉ huy Sư đoàn Panzer số 7, sau này được đổi tên thành Sư đoàn Ma (tiếng Đức: Gespenster-Division) do tốc độ và tính bất ngờ mà nó có thể làm được với những nhiệm vụ được giao (thậm chí đến mức có lúc Bộ Chỉ huy Tối cao của quân Đức đã mất liên lạc với nó và không biết nó nằm ở đâu), trong chiến dịch Fall Gelb, chiến dịch chiếm nước Pháp và các nước Hà Lan, BỉLuxembourg. Điều đáng nói hơn cả là đây là lần đầu tiên Rommel chỉ huy một đơn vị xe tăng Panzer. Ông đã chứng tỏ kỹ năng đáng nể của mình trong chiến dịch này, đẩy lùi được đợt phản công của Lực lượng Viễn chinh Anh (British Expeditionary Force) tại Arras. Sư đoàn Panzer số 7 là một trong số các đơn vị Đức đầu tiên tiến đến eo biển Manche vào ngày 10 tháng 6 và chiếm giữ được cảng rất quan trọng là Cherbourg (Pháp) ngày 19. Phần thưởng cho Rommel là ông được thăng cấp và chỉ định làm chỉ huy trưởng Sư đoàn Tia Chớp số 5 (sau này được được tái thiết thành Sư đoàn Panzer số 21) và Sư đoàn Panzer số 15. Hai sư đoàn này được gửi sang Libya vào đầu năm 1941 để cùng với quân lính Ý hình thành nên Tập đoàn quân Bắc Phi (Deutsches Afrika Korps). Chính tại châu Phi, Rommel đã giành được tiếng tăm là vị chỉ huy xuất sắc nhất.

[sửa] Bắc Phi 1941-1943

Erwin Rommel, 1941
Erwin Rommel, 1941

Rommel dành gần hết năm 1941 để tổ chức và tái thiết lập các đơn vị quân Ý đã rệu rã do hứng chịu những thất bại liên tiếp trước các lực lượng trong Khối Thịnh vượng chung Anh (British Commonwealth) dưới sự điều khiển của Thiếu tướng Richard O'Connor. Cuộc tấn công sau đó đã đánh bật được các lực lượng Đồng Minh ra khỏi Libya, nhưng vẫn chưa tiến đến được Ai Cập, và khi đó cảng quan trọng Tobruk, mặc dầu đã bị bao vây, vẫn nằm trong tay các lực lượng Đồng Minh dưới sự chỉ huy của vị tướng người Úc, Leslie Morshead. Tham mưu trưởng của quân Đồng Minh tại đây, tướng Archibald Wavell đã cố gắng thực hiện hai cuộc tấn công nhằm giải vây cho Tobruk, chiến dịch Brevity và Battleaxe, nhưng đều thất bại.

Sau thất bại đáng kể của chiến dịch Battleaxe, Wavell đã được thay thể bằng viên tổng tư lệnh gốc Ấn Độ, tướng Claude Auchinleck. Auchinleck đã mở một trận tấn công lớn để giải vây cho Tobruk, chiến dịch Crusader, và cuối cùng đã thành công. Đã có một lần Rommel đến một bệnh viện cho binh lính New Zealand – hãy còn trong vùng kiểm soát của Anh. "Ông đã hỏi thăm về nhu cầu của bệnh nhân, hứa sẽ cung cấp thuốc của Anh và ra đi không bị ngăn trở." (The Rommel Papers, chương 8, viết bởi tướng Fritz Bayerlein.)

Chiến dịch Crusader là một thất bại cho Rommel. Vài tuần sau trận đánh, Rommel đã hạ lệnh rút lui tất cả các lực lượng của mình đang đóng tại các khu vực xung quanh Tobruk (7 tháng 12, 1941) và triệt thoái về El Agheila. Quân Anh đã đuổi theo, cố gắng tiêu diệt toán quân Đức đang rút lui như họ đã làm vào năm 1940, thế nhưng Rommel đã tung ra một đợt phản công vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 và giáng một đòn chí mạng vào quân Anh. Tập đoàn quân Bắc Phi tái chiếm Benghazi, quân Anh phải lui về khu vực Tobruk và bắt đầu xây dựng các vị trí phòng thủ.

Đầu mùa hè năm 1942 (24 tháng 5, 1942), quân của Rommel tấn công. Theo cách đánh chớp nhoáng (blitzkrieg) cổ điển, quân của Rommel đã thọc vào sườn quân Anh tại Gazala, bao vây và làm yếu đi những thế mạnh của quân Anh tại Bir Hakeim, buộc quân Anh rút lui một cách nhanh chóng, nên được gọi là "Cú phi nước đại Gazala", để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn. Tobruk giờ đây bị cô lập và chỉ còn một mình, nằm giữa Tập đoàn quân Bắc Phi và Ai Cập. Ngày 21 tháng 6 năm 1942, sau một trận tấn công phối hợp nhanh, mạnh mẽ và có tính kết hợp của quân Đức, thành phố đã bị bao vây cùng với 33.000 quân lính. Gần một năm sau thất bại tại Singapore, quân Anh và lực lượng trong Khối Thịnh vượng chung Anh mới bị tổn thất lớn như vậy. Các lực lượng Đồng Minh đã hoàn toàn bị đánh bại. Vài tuần sau đó, họ phải rút lui ra xa khỏi Ai Cập.

Rommel tại Bắc Phi – Mùa hè 1941
Rommel tại Bắc Phi – Mùa hè 1941

Cuộc tấn công của Rommel cuối cùng phải dừng lại tại đường ray của một thị trấn nhỏ ở El Alamein (Ai Cập), chỉ cách Alexandria 60 dặm. Trong trận chiến El Alamein lần thứ nhất, quân của Rommel thất bại do những vấn đề về nguồn tiếp tế vũ khí, lương thực do một chiến dịch nhằm cắt đứt các tuyến đường vận chuyển của quân Đức mang tên Ultra được Không quân và Hải quân Hoàng gia Anh (Royal Air ForceRoyal Navy) thực hiện và những chiến thuật được cải tiến của quân Anh. Người Anh rất gần với nguồn tiếp tế và có được những người lính mới, khỏe mạnh để tăng cường cho các vị trí đóng quân của họ. Chiến thuật của Auchinleck là tiếp tục tấn công vào các lực lượng Ý yếu kém để giành thế chủ động về phía mình. Rommel, một lần nữa cố gắng bẻ gẫy phòng tuyến của quân Anh bằng trận đánh tại Alam Halfa. Ông đã hoàn toàn bị cầm chân lại bởi vị chỉ huy mới đến của quân Đồng Minh, Trung tướng Bernard Montgomery, một người luôn có được sự hỗ trợ tuyệt đối về lương thực và vũ khí.

Do các lực lượng Đồng Minh từ Malta ngăn chặn nguồn tiếp tế của Rommel ngay tại bờ biển, và cả một khu vực rất rộng lớn mà ông phải giữ lấy, Rommel không thể giữ El Alamein mãi được. Vì vậy mà sau trận chiến tại El Alemein lần thứ hai, quân của Rommel phải rút lui. Sau thất bại tại El Alamein, mặc dù HitlerMussolini nhiều lần thúc giục Rommel, các lực lượng của ông đã không thể đứng vững và chiến đấu lại được nữa cho đến khi họ tiến vào Tunisia. Sau đó, trận chiến đầu tiên của họ không phải đối đầu với lực lượng quân đội tám nước của người Anh nữa (British Eighth Army, gồm có Úc, Ấn Độ, New Zealand, Nam Phi, Rhodesia, PhápBa Lan), mà là Quân đoàn số 2 của Mỹ. Quân của Rommel đã giáng một đòn nặng nề vào các lực lượng Mỹ tại trận chiến ở đèo Kasserine.

Một lần nữa, khi đối mặt với các lực lượng Khối Thịnh vượng chung của người Anh tại vành đai phòng thủ ở vùng biên giới của Pháp tại Mareth, Rommel đã không thể tránh được sự trễ nải trong các cuộc tấn công do không có nguồn tiếp tế. Kế hoạch Ultra chính là một mắt xích quan trọng dẫn đến sự thất bại đối với các lực lượng của ông. Rommel phải rời khỏi Bắc Phi và nhiều người lính từng chiến đấu dưới sự chỉ huy của ông trở thành tù binh chiến tranh.

Một số nhà sử học so sánh việc rút lui khỏi Tunisia của ông với những giấc mộng thành công lớn hơn của Hitler so với việc ông chiếm giữ được cảng Tobruk. Như một số mệnh được định sẵn với Đức Quốc Xã, trong khi lực lượng của Rommel đã không thể chiến đấu một cách hiệu quả do luôn gặp phải tình trạng thiếu thốn về nguồn tiếp tế thì tại trận chiến Stalingrad ở mặt trận phía đông nước Nga, mặc dù được sự hỗ trợ tuyệt đối nhưng Đạo quân số 6 do Thống chế Friedrich Paulus chỉ huy đã bị tiêu diệt gần như hoàn toàn và thậm chí viên Thống chế này đã bị bắt làm tù binh.

Trong giai đoạn này, có tài liệu nói rằng quân Anh đã cố gắng tổ chức một cuộc bắt sống Rommel ngay tại tổng hành dinh của ông, ở phía sau phòng tuyến quân Đức những 250 dặm, nhưng bất thành.

[sửa] Pháp 1943–1944

Thống chế Erwin Rommel (ở giữa) trong cuộc thảo luận về cuộc tấn công Pháp sắp tới của Đồng Minh với Đại tướng Johannes Blaskowitz và Thống chế Gerd von Rundstedt
Thống chế Erwin Rommel (ở giữa) trong cuộc thảo luận về cuộc tấn công Pháp sắp tới của Đồng Minh với Đại tướng Johannes Blaskowitz và Thống chế Gerd von Rundstedt

Quay trở về Đức, Rommel có một khoảng thời gian vô công rỗi nghề. Tuy nhiên, khi quân đội phát xít Đức mất thể chủ động trên chiến trường, Hilter đã gửi Rommel đến bộ tham mưu của Tập đoàn quân B, chịu trách nhiệm tổ chức phòng thủ bờ biển phía Tây nước Pháp trước cuộc xâm lược có thể xảy ra của quân đội Đồng Minh. Trước khi cuộc tấn công xảy ra vài tháng, do nhận thấy sự mất tinh thần, tốc độ xây dựng chậm chạp của quân Đức, Rommel đã nỗ lực hết sức mình để xây dựng tuyến phòng thủ dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Dưới sự trực tiếp chỉ đạo của ông, công việc diễn ra với tốc độ đáng kinh ngạc, hàng triệu bãi mìn, hàng ngàn ụ bê tông bảo vệ xe tăng và các chướng ngại vật đã được dựng lên trên các bãi biển và các vùng thôn quê.

Sau các trận chiến của mình tại châu Phi, ông đúc kết ra rằng không thể nào ngăn chặn được tốc độ tiến công dưới sự yểm trợ tối đa bằng đường không của quân Đồng Minh. Ông đã đưa ra quan điểm rằng các lực lượng xe tăng nên được tách ra thành các đơn vị nhỏ để củng cố vững chắc các điểm trọng yếu và nên được đặt gần chiến tuyến càng tốt bởi vì chúng không thể di chuyển được đi xa một khi cuộc tấn công nổ ra. Ông muốn cuộc tấn công của quân Đồng Minh phải được chặn đứng ngay từ các bãi biển. Tuy nhiên, vị chỉ huy của ông, Thống chế Gerd von Rundstedt, lại cho rằng không có cách nào ngăn chặn được cuộc tấn công từ bờ biển vì hỏa lực quá mạnh của lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh. Ông ta lại nghĩ các lực lượng xe tăng nên được tổ chức lại thành các đơn vị lớn đóng sâu vào vùng đất liền gần Paris, nơi cho phép lực lượng Đồng Minh tiến sâu vào và sau đó sẽ tiêu diệt họ. Khi phải lựa chọn một kế hoạch cụ thể để tiến hành, Hitler tỏ ro do dự và đưa ra một giải pháp mang tính lưng chừng, vừa đủ xa để làm kế hoạch của Rommel trở nên không còn có ích và cũng không đủ xa như theo kế hoạch của von Rundstedt vạch ra. Có thể nói rằng, kế hoạch của Rommel đã không được toại nguyện.

Trong ngày D-Day (ngày mở màn cuộc đổ bộ vào Normandy), nhiều đơn vị xe tăng, nhất là Sư đoàn Panzer SS số 12 khi đó đang ở rất gần bờ biển và có đủ khả năng để gây ra một sự thiệt hại nghiêm trọng cho quân Đồng Minh. Cái rủi cho quân phát xít Đức lại là cái may cho quân Đồng Minh, Hitler đã từ chối tung ra các đơn vị tăng này vì ông ta tin rằng cuộc đổ bộ lên bờ biển chỉ là đòn nghi binh của đối phương. Chúng ta phải cảm ơn rất nhiều vì nhờ có sự thành công của chiến dịch tung tin giả mạo mang tên Fortitude, Hitler và bộ chỉ huy tối cao của Đức đã mong chờ một cuộc tấn công lớn của quân Đồng Minh vào Pas de Calais. Đối mặt với các cuộc tấn công quy mô nhỏ của quân Đức, lực lượng Đồng Minh nhanh chóng chiếm được các vị trí đổ bộ.

[sửa] Âm mưu chống lại Hitler

Tháng 5-1944, Rommel cùng với những sĩ quan tham mưu thân tín nhất của mình. Tham mưu trưởng tướng Hans Speidel, Đô đốc hải quân Friedrich Ruge và sĩ quan tùy viên của ông, Đại úy Hellmuth Lang. Tất cả họ đều có tham gia vào âm mưu sát hại Hitler
Tháng 5-1944, Rommel cùng với những sĩ quan tham mưu thân tín nhất của mình. Tham mưu trưởng tướng Hans Speidel, Đô đốc hải quân Friedrich Ruge và sĩ quan tùy viên của ông, Đại úy Hellmuth Lang. Tất cả họ đều có tham gia vào âm mưu sát hại Hitler

Ngày 17 tháng 7, 1944, Rommel đang di chuyển trên xe hơi thì bị một chiếc máy bay Spitfire của Không lực Hoàng gia Canada (RCAF) oanh kích, ông đã được đưa vào bệnh viện với các vết thương ở vùng đầu. Cùng khoảng thời gian này, sau sự thất bại của âm mưu đảo chính chống lại Hitler vào ngày 20 tháng 7, một cuộc đàn áp thẳng tay đã được thực hiện trong khắp hệ thống quân đội Đức. Khi các cuộc điều tra được tiến hành, nhiều mối liên kết đã chỉ ra sự dính líu chặt chẽ của Rommel đối với âm mưu này, và cả những phụ tá thân tín nhất của ông của có liên quan tới. Khi đó, cũng có nhiều nhân viên đảng Quốc Xã ở địa phương đã báo cáo rằng Rommel đã có những lời lẽ khinh miệt dành cho giới lãnh đạo đảng Quốc Xã trong thời gian ông nằm tại bệnh viện. Martin Bormann quả quyết rằng Rommel có dính líu tới vụ này trong khi Joseph Goebbels (bộ trưởng tuyên truyền của Hitler) thì lại không.

Sự thật là việc Rommel có tham gia vào âm mưu này hay không vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, sau chiến tranh, vợ của Rommel quả quyết rằng ông đã chống lại trong lúc âm mưu được thực hiện. Người ta đã cho rằng vì không muốn đem các thế hệ người tương lai của người Đức rơi vào sự thất bại của cuộc chiến bởi thuyết Dolchstoßlegende vẫn thường được một số người Đức tin tưởng sau Thế chiến thứ I, mà thay vào đó, Rommel ủng hộ cuộc một cuộc đảo chính và Hitler sẽ được đem ra xét xử trước công chúng.

Vì sự ngưỡng mộ của người dân Đức với Rommel, Hitler cho ông ta lựa chọn giữa việc tự sát bằng chất độc cyanide hay đối mặt với phiên tòa làm bôi nhọ danh dự ông tại Tòa án Nhân dân của Roland Freisler và sau đó sẽ giết hại gia đình cũng như những người cộng sự của ông. Rommel đã chọn cách thứ nhất, ông đã tự kết liễu đời mình vào ngày 14 tháng 10, 1944 và được chôn cất với đầy đủ nghi thức trang trọng của quân đội. Sau chiến tranh, quyển nhật ký chiến tranh của ông được xuất bản mang tên The Rommel Papers. Rommel là thành viên duy nhất của Đế chế thứ ba (Third Reich) có được bảo tàng ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của ông. Mộ của ông nằm ở Herrlingen, cách Ulm không xa.

[sửa] Rommel bị bức tử

(Đoạn này được tóm tắt theo The rise and fall of the Third Reich – A history of Nazi Germany, của William L. Shirer. NXB: Simon and Schuster, Inc., New York, N.Y., 1960.)

Sau vụ ám sát hụt Hitler ngày 20 tháng 7, 1944, năm người chủ mưu bị xử tử ngay trong ngày, còn Mật vụ Đức truy ra sự can dự của Thống chế Günther von Kluge, Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây, tức cấp trên trực tiếp của Rommel. Sau khi bị thay thế bởi Thống chế Otto Moritz Walter Model, Thống chế Kluge tự tử nhưng không chết, được đưa vào bệnh viện ở Verdun. Nơi đây, khi nửa mê nửa tỉnh và bị mù mắt, ông thốt ra tên của Rommel. Sau đấy, khi bị Mật vụ tra tấn dã man, Đại tá Caesar von Hofacker (thuộc tổng hành dinh của Ban Quân quản Pháp tại Paris) khai ra vai trò của Rommel trong âm mưu. Hofacker khai Rommel đã trấn an ông: "Hãy nói với những người ở Berlin rằng họ có thể trông cậy nơi tôi." Đấy là câu nói ám ảnh đầu óc của Hitler khiến cho Lãnh tụ quyết định vị thống chế được ông yêu thích phải chết, dù ông biết đấy là người được ngưỡng mộ nhất trên nước Đức.

Trong khi xương sọ, trán và xương má còn đang mang những vết nứt nặng, mắt bên trái còn bị thương nặng và cả đầu còn mang mảnh bom, Rommel được dời ra khỏi bệnh viện dã chiến để tránh bị quân Đồng minh bắt, rồi được đưa về nhà riêng ở Herrlingen gần Ulm. Ông nhận được dấu hiệu cảnh báo đầu tiên cho số phận của mình khi biết người cựu tham mưu trưởng của ông, Tướng Hans Speidel, bị bắt ngày 7/9, một ngày sau khi đến thăm ông ở Ulm.

Khi họ nói chuyện với nhau về Hitler, Rommel đã than thở với Tướng Speidel:

Cái tên lừa dối bệnh hoạn ấy đã hoàn toàn điên khùng. Hắn đang trút cơn bạo hành lên những người âm mưu ngày 20/7, và đấy chưa phải là hết!

Bây giờ, Rommel nhận thấy nhân viên SD đang rình rập quanh nhà ông. Khi ông đi tản bộ trong khu rừng gần nhà cùng với cậu con trai 15 tuổi, được đơn vị phòng không nơi cậu phục vụ cho phép về săn sóc cha, cả hai đều mang súng lục. Cùng lúc, tại tổng hành dinh ở Rastenburg Hitler nhận được báo cáo về lời khai của Hofacker đề cập đến Rommel. Thế là, Hitler tuyên án tử hình – nhưng theo cách đặc biệt. Như Tướng Wilhelm Keitel (Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu Quân lực) khai trước Tòa án Nürnberg, Lãnh tụ nhận ra

rằng đấy sẽ là một vụ xì-căng-đan kinh khủng nếu vị Thống chế có tiếng tăm này, người được yêu mến nhất, lại bị bắt và bị lôi ra trước Tòa án Nhân dân.

Vì thế, Hitler dàn xếp với Keitel là sẽ báo cho Rommel về chứng cứ chống lại ông này và cho chọn lựa giữa tự tử hoặc ra trước Tòa án Nhân dân về tội danh phản quốc. Nếu chọn cách tự tử, Rommel sẽ được an táng theo cấp nhà nước với mọi nghi thức của quân đội, và gia đình ông sẽ không bị xâm phạm.

Thế là, vào buổi trưa ngày 14/10/1944, hai vị tướng từ tổng hành dinh của Hitler đi đến nhà của Rommel, bây giờ bị binh sĩ SS bao vây cùng với 5 xe bọc thép. Hai người là Wilhelm Burgdorf, nghiện rượu, có tính xu nịnh Hitler giống như Keitel, và phụ tá của ông thuộc Phòng Nhân viên Lục quân, Ernst Maisel, cũng có tố chất tương tự. Họ đã báo trước cho Rommel hay rằng Hitler phái họ đến để thảo luận "công tác sắp tới" của Thống chế.

Sau này, Keitel khai trước Tòa án Nürnberg: "Do Lãnh tụ sai khiến, tôi phái Burgdorf đi cùng với bản văn của lời khai chống Rommel. Nếu đấy là đúng, ông ấy sẽ phải chịu hậu quả, Nếu không đúng, tòa án sẽ miễn tội cho ông."

"Và ông chỉ thị cho Burgdorf mang theo thuốc độc, đúng không?"

"Đúng. Tôi bảo Burgdorf mang theo thuốc độc cho Rommel dùng, nếu tình hình đòi hỏi."

Sau khi Burgdorf và Maisel đến, mọi người thấy không phải để thảo luận công tác sắp tới của Rommel. Hai người yêu cầu được nói chuyện riêng với Thống chế, và ba người đi vào phòng đọc sách.

Manfred Rommel, con trai của Rommel, sau này kể lại: "Vài phút sau, tôi nghe tiếng cha tôi đi lên lầu và bước vào phòng mẹ tôi." Rồi thì:

Chúng tôi đi vào phòng của tôi. Ông ấy chậm rãi nói: "Cha vừa nói chuyện với mẹ con rằng trong vòng một phần tư giờ nữa cha sẽ chết... Hitler đang kết tội cha là phản quốc. Xét qua công trạng của cha ở Châu Phi, cha sẽ có cơ hội chết bằng thuốc độc. Hai người tướng đã mang thuốc độc đến. Cái chết sẽ đến sau ba giây. Nếu cha chấp nhận, gia đình ta sẽ không phải chịu những biện pháp thường thấy... Cha sẽ được làm lễ an táng cấp nhà nước. Lễ tang đã được chuẩn bị đến chi tiết cuối cùng. Trong vòng một phần tư giờ, con sẽ được bệnh viện ở Ulm báo cho biết cha đã bị tai biến mạch máu não trên đường đi dự họp."

Sự việc đã xảy ra đúng như thế.

Mặc chiếc áo jacket cũ bằng da của Binh đoàn Châu Phi và cầm cây gậy thống chế, Rommel bước vào chiếc xe cùng với hai người tướng. Xe chạy được khoảng 3 kilômét theo con đường ven một khu rừng, rồi Tướng Meisel và tài xế SS bước ra, để Rommel và Tướng Burgdorf ngồi lại phía sau. Một phút sau, hai người quay lại chiếc xe; Rommel đã chết. Mười lăm phút sau khi vĩnh biệt chồng, bà vợ của Rommel nhận được một cuộc gọi từ bệnh viện. Bác sĩ cho biết hai người tướng đã mang thi hài của Rommel đến, qua đời vì nghẽn mạnh máu não, hiển nhiên là do việc vỡ xương sọ lúc trước. Thật ra, Burgdorf đã cấm khán nghiệm tử thi. Ông bảo: "Không được đụng đến xác chết. Mọi việc đã được thu xếp ở Berlin."

Đúng như thế.

Thống chế Model ra một nhật lệnh cho biết Rommel đã qua đời vì "những vết thương gây ra ngày 17/7" và tỏ ý thương tiếc sự mất mát "của một trong những vị tư lệnh vĩ đại nhất của đất nước."

Hitler gửi điện tín đến bà vợ của Rommel:

Xin hãy nhận lòng cảm thông chân thành của tôi đối với sự mất mác nặng nề mà bà phải chịu đựng vì cái chết của ông nhà. Tên tuổi của Thống chế Rommel sẽ mãi mãi gắn liền với những trận đánh anh hùng ở Châu Phi.

Göring cũng gửi một bức điện:

Sự kiện là ông nhà đã qua đời với một cái chết anh hùng vì hậu quả của các vết thương, sau khi tất cả chúng tôi đã hy vọng ông sẽ ở lại với nhân dân Đức, đã khiến cho tôi cảm thương một cách sâu sắc.

Hitler ra lệnh tổ chức lễ tang cấp nhà nước, trong đó vị sĩ quan cao niên của Quân đội Đức, Thống chế Karl Rudolf Gerd von Rundstedt (cựu Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây, cũng là cấp trên trực tiếp của Rommel, trước Kluge), đọc điếu văn khi đứng bên thi hài của Rommel phủ cờ chữ thập ngược: "Con tim của ông ấy thuộc về Lãnh tụ."

Công bằng mà nói, có lẽ Rundstedt không biết những tình tiết trong cái chết của Rommel, và hẳn chỉ biết được qua lời khai của Keitel tại Tòa án Nürnberg. Rundstedt khai: "Tôi không nghe được những lời đồn đại ấy, nếu không tôi đã từ chối đại diện cho Lãnh tụ ở lễ tang; đấy sẽ là điều ô nhục không lời nào diễn tả được." Tuy nhiên, tang quyến Rommel nhận thấy Rundstedt từ chối đến dự lễ hỏa thiêu sau lễ tang và đến chia buồn với quả phụ tại nhà của Rommel, trong khi phần lớn các tướng lĩnh khác đều đến.

Sau này, một bia tưởng niệm được dựng nơi chiếc xe dừng cho Rommel uống thuốc độc với dòng chữ:

Tại đây, Thống chế Erwin Rommel bị ép buộc phải tự tử vào ngày 14 tháng 10, 1944. Ông nhận một cốc thuốc độc và tự hy sinh, hầu cứu gia đình ông thoát khỏi tay sai của Hitler.

[sửa] Các trận chiến mà Erwin Rommel tham gia

  • Trận chiến Arras (1940)
  • Cuộc bao vây Tobruk (1941)
  • Trận chiến Gazala (1942)
  • Trận chiến Bir Hakeim (1942)
  • Trận chiến El Alamein lần thứ I (1942)
  • Trận chiến Alam Halfa (1942)
  • Trận chiến El Alamein lần thứ II (1942)
  • Trận chiến Kasserine Pass (1943)
  • Trận chiến Normandy (1944)

[sửa] Trong tiểu thuyết

James Mason đã đóng vai của Rommel trong cuốn phim The Desert Fox năm 1951, và diễn viên Karl Michael Vogler cũng thủ vai của ông trong bộ phim Patton, do George C. Scott đóng vai chính. Năm 1988, Hardy Kruger đóng vai Rommel trong loạt phim nhiều tập War and Remembrance.

Trong cuốn truyện lịch sử giả tưởng The Man in the High Castle, tác giả Philip K. Dick có đề cập đến chi tiết Rommel được chính quyền Mỹ chỉ định làm chủ tích của đảng Quốc Xã trong những năm đầu thập niên 1960.

Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Fox on the Rhin của hai tác giả Douglas Niles và Michael Dobson, Hitler bị giết trong âm mưu cho nổ bom vào ngày 20 tháng 7 năm 1944. Điều này dẫn tới việc Rommel tiếp tục sống và nhanh chóng mở ra một cuộc tấn công. Cuộc tấn công này bị đẩy lùi và cuốn sách kết thúc với việc Rommel đầu hàng người Anh và người Mỹ, vì ông tin rằng người dân Đức sẽ được sống tốt đẹp hơn dưới quyền lực của người phương Tây chứ không phải dưới tay chính quyền Xô Viết. Cuốn Fox on the Front là cuốn tiếp theo của Fox on the Rhine.

[sửa] Những câu nói nổi tiếng về Rommel

  • Quốc hội Anh đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu bãi nhiệm Winston Churchill sau thất bại tại Tobruk. Cuộc bỏ phiếu này đã thất bại, nhưng trong quá trình tranh luận, Churchill có nói: "We have a very daring and skillful opponent against us, and, may I say across the havoc of war, a great General." (Chúng ta có một đối thủ rất là dũng cảm và tài giỏi và, tôi có thể nói (rõ hơn là) phía bên kia của cuộc chiến tàn phá này là, một vị tướng quân vĩ đại.)
  • Khi nghe tin về cái chết của Rommel, Churchill có nói: "He also deserves our respect, because, although a loyal German soldier, he came to hate Hitler and all his works, and took part in the conspiracy to rescue Germany by displacing the maniac and tyrant. For this, he paid the forfeit of his life. In the sombre wars of modern democracy, there is little place for chivalry." (Ông ta xứng đáng có được sự tôn trọng của chúng ta, bởi vì, mặc dầu là một người lính Đức trung thành, ông đã chán ghét Hitler và những việc làm của hắn, và đã tham gia vào âm mưu giải thoát nước Đức khỏi tay tên bạo chúa này. Vì điều đó mà ông ta đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Trong những cuộc chiến tranh cho nền dân chủ tân tiến, có rất ít chỗ cho tinh thần hiệp sĩ này.)
  • Theodor Werner, từng là một sĩ quan phục vụ dưới quyền Rommel trong Thế chiến thứ I, đã nói: "Anybody who came under the spell of his personality turned into a real soldier. He seemed to know what the enemy were like and how they would react." (Bất kỳ ai bị rơi vào sức thu hút mạnh mẽ của ông đều trở thành một người lính thực sự. Ông ta dường như biết được kẻ thù của mình ra sao và họ sẽ đánh trả lại như thế nào.)
  • Lời nói được cho là của tướng George S. Patton tại Bắc Phi: "Rommel, you magnificent bastard! I read your book!" (Này Rommel, thằng khốn nạn tuyệt vời! Ta (đã) đọc được sách (về nghệ thuật chiến tranh) của ngươi!)

[sửa] Những câu nói nổi tiếng của Erwin Rommel

  • "Sweat saves blood, blood saves lives, and brains saves both." (Sự vất vả cứu lấy sự đổ máu, sự đổ máu cứu lấy mạng sống, và trí tuệ cứu cả hai.)
  • "Mortal danger is an effective antidote for fixed ideas." (Mối nguy hiểm chết người chính là thứ thuốc giải hiệu quả cho những quan điểm cứng nhắc.)
  • "The best form of welfare for the troops is first-rate training." (Cách bảo vệ tốt nhất cho binh lính là sự huấn luyện ở mức tốt nhất.)
  • "Don't fight a battle if you don't gain anything by winning." (Đừng đánh nếu không thu được bất cứ gì từ chiến thắng.)
  • "In a man-to-man fight, the winner is he who has one more round in his magazine." (Trong một trận đấu tay đôi, người chiến thắng là kẻ có nhiều đạn.)
  • "Courage which goes against military expediency is stupidity, or, if it is insisted upon by a commander, irresponsibility." (Dũng cảm mà đi ngược lại với lợi ích quân sự là sự ngu dốt; (hơn nữa) khi được đòi hỏi bởi cấp chỉ huy thì là sự vô trách nhiệm.)
  • "So long as one isn't carrying one's head under one's arm, things aren't too bad." (Khi đầu còn chưa rơi thì mọi việc còn chưa quá tệ.)
  • "A risk is a chance you take; if it fails you can recover. A gamble is a chance taken;if it fails, recovery is impossible." (Liều là một cơ hội người ta lấy, nếu hỏng thì còn cứu được. Đánh bạc là một cơ hội xảy ra, nếu hỏng thì không có cứu vớt.)
  • "There is one unalterable difference between a soldier and a civilian: the civilian never does more than he is paid to do." (Có một điểm khác biệt không bao giờ thay đổi được giữa một người thường dân và một người lính: người thường dân không bao giờ làm thêm so với số tiền mà họ được trả.)
  • "What difference does it make if you have two tanks to my one, when you spread them out and let me smash them in detail?" (Ăn thua gì nếu bạn có hai xe tăng và tôi chỉ có một, khi bạn chia hai xe ra hai bên và tôi bắn cả hai tan ra từng mảnh?)
  • "The best plan is the one made when the battle is over." (Kế hoạch tốt nhất là kế hoạch nghĩ ra sau khi trận đánh đã kết thúc)
  • "In the absence of orders, go find something and kill it." (Khi chưa nhận được lệnh thì kiếm cái gì mà giết đi.)
  • "The officers of a panzer division must learn to think and act independently within the framework of the general plan and not wait until they receive orders." (Các sĩ quan của Sư đoàn Panzer phải học cách suy nghĩ và hành động một cách độc lập từ những căn bản trong kế hoạch tổng quát chứ không phải đợi đến khi nhận được mệnh lệnh.)
  • "Men are basically smart or dumb and lazy or ambitious. The dumb and ambitious ones are dangerous and I get rid of them. The dumb and lazy ones I give mundane duties. The smart ambitious ones I put on my staff. The smart and lazy ones I make my commanders." (Con người, về cơ bản, gồm có những kẻ thông minh hay đần độn và những kẻ lười biếng hay có nhiều hoài bão. Những kẻ đần độn mà có nhiều hoài bão thì rất nguy hiểm, tôi sẽ loại bỏ những người này. Những kẻ đần độn mà lười biếng, tôi giao cho họ những công việc tầm thường. Những kẻ thông minh và có nhiều hoài bão, tôi sẽ đưa họ vào ban tham mưu của mình. Những kẻ thông mình mà lại lười nhác, tôi cho họ làm chỉ huy trưởng.)
  • "Be an example to your men, in your duty and in private life. Never spare yourself, and let the troops see that you don't in your endurance of fatigue and privation. Always be tactful and well-mannered and teach your subordinates to do the same. Avoid excessive sharpness or harshness of voice, which usually indicates the man who has shortcomings of his own to hide." (Phải làm gương cho lính của mình, trong nhiệm vụ và trong đời tư. Đừng bao giờ nghĩ riêng cho mình, và phải cho lính thấy mình không nghĩ cho mình trong những phút khó khăn,cực nhọc, thiếu thốn. Luôn luôn tế nhị và đàng hoàng khi giáo dục kẻ dưới để họ làm theo. Tránh đay nghiến hay nặng tiếng, vì đó thường là biểu hiện của con người muốn che dấu sơ hở của mình)
  • "The future battle on the ground will be preceded by battle in the air. This will determine which of the contestants has to suffer operational and tactical disadvantages and be forced throughout the battle into adoption compromise solutions." (Trong tương lai, trận đánh trên bộ sẽ đi sau trận đánh trên không. Từ đó sẽ quyết định bên nào sẽ chịu thiệt thòi về kế hoạch và chiến thuật và suốt trận đánh sẽ phải chấp nhận những giải quyết bất lợi)
  • "Anyone who has to fight, even with the most modern weapons, against an enemy in complete command of the air, fights like a savage against modern European troops, under the same handicaps and with the same chances of success." (Bất cứ ai, dù với vũ khí tân kỳ nhất, phải đánh nhau khi quân địch đã hoàn toàn làm chủ tình thế trên không, sẽ chiến đấu giống như quân mọi rợ chống lại quân đội hiện đại châu Âu, với những thiệt thòi tương tự và cơ hội thành công tuơng tự)
  • "One must not judge everyone in the world by his qualities as a soldier: otherwise we should have no civilization." (Không ai được phán quyết về bất cứ ai trên đời qua những giá trị người đó có khi làm lính, nếu khác thế thì chúng ta sẽ không có văn minh)
  • "The art of concentrating strength at one point, forcing a breakthrough, rolling up and securing the flanks on either side, and then penetrating like lightning deep into his rear, before the enemy has time to react-is Blitzkrieg." (Nghệ thuật tập trung sức mạnh vào một điểm, chọc thủng qua, vòng trở lại, che hai bên, rồi tấn công như bão vào phía sau, trước khi địch có thời giờ phản ứng là Blitzkrieg.)
  • "Messages can't be intercepted if they aren't sent, can they?" (Mật thư không bao giờ bị lấy cắp nếu không được gửi, phải thế không?)
  • "This business with the Jews has got to stop." (Vấn đề dân Do Thái này phải chấm dứt!)

[sửa] Tham khảo

  • The Battle of Alamein: Turning Point, World War II, bởi Bierman and Smith (2002). ISBN 0670030406
  • Rommel's Greatest Victory, bởi Samuel W. Mitcham, Samuel Mitcham. ISBN 0891417303
  • Meeting the Fox: The Allied Invasion of Africa, from Operation Torch to Kasserine Pass to Victory in Tunisia, bởi Orr Kelly. ISBN 0471414298
  • INSIDE THE AFRIKA KORPS: The Crusader Battles, 1941–1942. ISBN 1853673226
  • Alamein, bởi Jon Latimer. ISBN 0674010167
  • Tank Combat in North Africa: The Opening Rounds: Operations Sonnenblume, Brevity, Skorpion and Battleaxe February 1941–June 1941 (Schiffer Military History), bởi Thomas L. Jentz. ISBN 0764302264
  • Rommel's North Africa Campaign: September 1940 – November 1942, bởi Jack Greene. ISBN 1580970184
  • Tobruk 1941: Rommel's Opening Move (Campaign, 80) bởi Jon Latimer. ISBN 1841760927
  • 21st Panzer Division: Rommel's Africa Korps Spearhead (Spearhead Series), bởi Chris Ellis. ISBN 0711028532
  • Afrikakorps, 1941–1943: The Libya Egypt Campaign, bởi Francois De Lannoy. ISBN 2840481529
  • With Rommel's Army in Libya bởi Almasy, Gabriel Francis Horchler, Janos Kubassek. ISBN 0759616086
  • Generalfeldmarschall Rommel: opperbevelhebber van Heeresgruppe B bij de voorbereiding van de verdediging van West-Europa, 5 November 1943 tot 6 juni 1944 bởi Hans Sakkers (1993). ISBN 90-800900-2-6 [sách hình ảnh bằng tiếng Hà Lan nói về Rommel tại bức tường Đại Tây Dương 1943/44]

[sửa] Liên kết ngoài

Our "Network":

Project Gutenberg
https://gutenberg.classicistranieri.com

Encyclopaedia Britannica 1911
https://encyclopaediabritannica.classicistranieri.com

Librivox Audiobooks
https://librivox.classicistranieri.com

Linux Distributions
https://old.classicistranieri.com

Magnatune (MP3 Music)
https://magnatune.classicistranieri.com

Static Wikipedia (June 2008)
https://wikipedia.classicistranieri.com

Static Wikipedia (March 2008)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com/mar2008/

Static Wikipedia (2007)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com

Static Wikipedia (2006)
https://wikipedia2006.classicistranieri.com

Liber Liber
https://liberliber.classicistranieri.com

ZIM Files for Kiwix
https://zim.classicistranieri.com


Other Websites:

Bach - Goldberg Variations
https://www.goldbergvariations.org

Lazarillo de Tormes
https://www.lazarillodetormes.org

Madame Bovary
https://www.madamebovary.org

Il Fu Mattia Pascal
https://www.mattiapascal.it

The Voice in the Desert
https://www.thevoiceinthedesert.org

Confessione d'un amore fascista
https://www.amorefascista.it

Malinverno
https://www.malinverno.org

Debito formativo
https://www.debitoformativo.it

Adina Spire
https://www.adinaspire.com