Súng phóng lựu chống tăng B-40
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Súng chống tăng B-40 hay súng phóng lựu chống tăng B-40 là loại ống phóng rocket (rốc két) chống tăng cá nhân xách tay đầu tiên trên thế giới được thiết kế bởi Liên Xô với tên RPG-2 (tiếng Nga: РПГ-2 Ручной Противотанковый Гранатомёт-2: Súng phóng lựu chống tăng xách tay phiên bản 2) bắn đầu đạn rocket PG-2 theo nguyên tắc đầu đạn phản lực. Ưu điểm nổi bật của loại súng phóng lựu chống tăng này là rất đơn giản tiện dụng, dễ thao tác, bền, "nồi đồng cối đá" không cần kỹ thuật bảo dưỡng gì phức tạp, dễ chế tạo, rẻ... nhưng hiệu quả chiến đấu rất cao, uy lực lớn. Trong các năm 1960-1970 ngoài Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và các đồng minh khác của khối Cộng sản như Bắc Triều Tiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Ai Cập, Iraq, Syria đặc biệt là Trung Quốc cũng sản xuất loại súng chống tăng này với số lượng rất lớn, tại Việt nam nó được nổi tiếng với tên B-40 phần nhiều do Trung Quốc cung cấp và được sử dụng rất rộng rãi trong chiến tranh Việt Nam và được đánh giá là loại hoả lực đa năng đánh gần rất hiệu quả của bộ binh.
Súng chống tăng B-40, cũng như B-41 là phiên bản cải tiến của nó sau này có thể được thao tác bắn dễ dàng chỉ bằng một xạ thủ, và là vũ khí hoả lực cấp tiểu đội trong Quân đội Xô Viết, nhưng trong thực tế chiến đấu trên chiến trường Việt Nam nó thường được sử dụng như vũ khí nhóm của tổ ba người một xạ thủ mang súng phóng lựu với giỏ 3 quả đạn, hai chiến sỹ yểm hộ và dự bị mang tiểu liên và mang lượng đầu đạn dự bị khoảng 5-10 quả.
Mục lục |
[sửa] Phát triển
Súng phóng lựu B-40 có phiên bản tiền thân của nó là RPG-1 là ống phóng chống tăng Panzerfaust của Đức Quốc xã được triển khai năm 1944 trong thế chiến II và đã phát huy tác dụng rất tốt hạ được rất nhiều xe tăng của Liên Xô trong trận đánh chiếm Berlin của quân đội Xô viết tháng 4 năm 1945. Nhưng khác với Panzerfaust là loại theo nguyên tắc súng không giật (nhiều người hiểu chưa đúng là loại rocket phản lực) còn RPG-2 (B-40) thực sự là ống phóng rocket trên nguyên tắc phản lực và là loại ống phóng lựu phản lực cá nhân đầu tiên trên thế giới. Nó được sản xuất hàng loạt năm 1947 và vũ trang cho các lực lượng vũ trang Xô viết vào năm 1949.
Năm 1961 Liên Xô chấm dứt sản xuất và thay thế loại RPG-2 này bằng RPG-7 trong các lực lượng vũ trang Xô viết, loại cải tiến này được biết đến ở Việt nam với cái tên B-41. Nhưng B-40 vẫn được sản xuất ở các nước khác nhất là Trung Quốc tiếp tục sản xuất B-40 với số lượng lớn và cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho nhu cầu chiến tranh và Liên Xô cung cấp cho Việt Nam số B-40 tồn kho của mình. Trên chiến trường Việt nam dùng lẫn lộn cả B-40 và B-41 chỉ đến năm 1973 thì tại chiến trường Việt Nam B-40 mới bị B-41 thay thế hoàn toàn. Và có lẽ chiến trường Việt Nam là nơi sử dụng nhiều nhất loại vũ khí này và là nơi B-40 thể hiện toàn diện được các phẩm chất và nhược điểm của mình để cải tiến cho các thế hệ súng phóng lựu chống tăng đời sau.
[sửa] Cấu tạo
B-40 có kết cấu rất đơn giản là một ống thép 40 mm để phóng đầu đạn rocket 82 mm PG-2. Phần trung tâm của súng có ốp gỗ để cách nhiệt cho vai xạ thủ. Chiều dài cả súng đã lắp đạn là 120 mm và nặng 4,48 kg
Súng B-40 không trang bị kính ngắm quang học chỉ có khe ngắm gập được bằng khung sắt rất thô sơ và độ chính xác chưa cao: để bắn mục tiêu cố định tầm bắn chính xác của nó là 150 m và đối với mục tiêu di động tầm chính xác là đến 100 m.
Loại súng này chỉ bắn một loại đầu đạn chống tăng PG-2 (loại B-41 bắn nhiều loại đầu đạn) liều thuốc phóng là thuốc cháy đen được nén trong ống bìa được xạ thủ lắp vào quả đạn ngay trước khi bắn, khi đó quả đạn có ống đuôi dài và đuôi đó được đút vào nòng súng từ phía trước với phần đầu đạn ở bên ngoài.
Đầu đạn chống tăng có sức công phá lớn theo nguyên tắc đầu đạn lõm chuyển động bằng phản lực nhờ liều thuốc cháy đằng đuôi. Khi bay có cánh đuôi được mở ra để định hướng.
Vì là loại rocket có tốc độ và xung lực không cao độ chính xác của B-40 và cả B-41 phụ thuộc nhiều vào sức gió và kinh nghiệm của xạ thủ.
Một điểm yếu lớn của B-40 là tiếng rít phóng đầu đạn rất to có tần số cao có thể làm chảy máu tai xạ thủ, trong Quân đội Xô viết xạ thủ được trang bị mũ bảo vệ tai như của lính xe tăng, nhưng trong các điều kiện chiến đấu nhất là của các cuộc chiến tranh du kích, chiến tranh nổi dậy thì xạ thủ thường không có mũ chụp tai. Theo lời các cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, nếu bắn trên ba quả đạn trong khoảng thời gian ngắn xạ thủ có thể bị điếc.
[sửa] Lưới B-40
Trong chiến tranh Việt Nam để chống lại hoả lực B-40, B-41 của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam phía Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt nam Cộng hoà thường dùng lưới chống B-40 làm hàng rào để bảo vệ cho các mục tiêu cố định như chân cầu, trại lính, bồn nhiên liệu. Đó là lưới thép "mắt cáo" có thể cuộn lại được, kích thước các mắt khoảng 40-50 mm rào xung quanh mục tiêu. Đầu đạn B-40, B-41 là loại phản lực nên có vận tốc thấp, xung lực yếu không thể xuyên qua hàng rào bị mắc lại ở các "mắt cáo" lưới thép đàn hồi làm đạn không thể nổ khi va chạm và nếu có nổ cũng không gây hại cho mục tiêu, đạn khi bị mắc vào lưới cháy hết thuốc phóng và nằm lại đây. Hiện nay (2006) loại lưới này vẫn đang có nhu cầu sử dụng rất rộng rãi tại Việt nam để làm hàng rào các công trình xây dựng và để quây các bãi đất trống và vẫn được gọi theo tên cũ là "hàng rào B-40" hay "lưới B-40".
[sửa] Các phiên bản B-40
- RPG-2: phiên bản của Liên Xô.
- Loại 56: phiên bản copy của Trung Quốc.
- PG-7: Phiên bản Ai Cập.
- B-40: Phiên bản Việt Nam.
[sửa] Xem thêm
- Súng chống tăng B-41
- Súng chống tăng Bazooka (Ba Zô ka)