Mori Ōgai
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mori Ōgai (tiếng Nhật: 森 鷗外 / 森 鴎外; 17 tháng 2, 1862 – 8 tháng 7, 1922) là một bác sĩ, một dịch giả, nhà viết tiểu thuyết và là một nhà thơ Nhật Bản. Ông sinh ra ở Tsuwano, tỉnh Iwami (nay là quận Shimane) trong một gia đình đời đời làm nghề thầy thuốc cho lãnh chúa, lớn lên theo truyền thống đó, vào Đại Học Đế Quốc Tôkyô học y khoa. Ông tốt nghiệp năm 1881 và trở thành quân y của lục quân.
[sửa] Sự nghiệp
Mori được gửi đi học về khoa vệ sinh ở Đức (Leipzig, Dresden, Munich, và Berlin) bởi chính quyền Minh Trị năm 1884 khi ông ở tuổi 14. Lúc ông trở về ông tạm xếp ở một vị trí cao là một bác sĩ khoa nội trong quân đội Nhật Bản. Là một người chuyên điều trị không phải dùng phẫu thuật, Mori là chuyên gia trong lĩnh vực bệnh tê phù, một nguyên nhân gây đau ốm bởi sự thiếu hụt thiamine. Mori tin tưởng một cách sai lầm rằng bệnh tê phù là một bệnh truyền nhiễm và từ chối chế độ ăn kiêng mà lực lượng Hải quân Nhật đề ra cái mà rõ ràng đã điều trị cho 99% bệnh nhân. Những quyết định đáng ngờ của ông trong suốt Chiến tranh Nga-Nhật là nguyên nhân cái chết của mười ngàn lính nhật bị bệnh tê phù. Trong năm 1907 Mori trở thành Tổng cục trưởng hệ thống quân y của lục quân, và vào năm 1916 ông được chỉ định làm giám đốc nhà bảo tàng Đế Quốc.
Trong suốt chiến tranh Nga- Nhật (1904-1905) cái mà Mori giữ bên mình là một cuốn sổ thơ. Sau chiến tranh, ông bắt đầu thành lập tanka viết về Đảng bao gồm một số nhà thơ nổi tiếng như Yosano Akiko. Là một tác giả, Mori được coi là một nhà văn hàng đầu thời kỳ Minh Trị, với một số tác phẩm được biết đến như Maihime (舞姫, The Dancing Girl/ Nàng vũ công, 1890), miêu tả mối quan hệ giữa một người đàn ông Nhật và một phụ nữ Đức. Sanshō Dayū (山椒大夫), và Takasebune (高瀬舟. Ông cũng dịch một số tác phẩm của Goethe, Schiller, Ibsen, Hans Christian Andersen, và Hauptmann, và thành lập viện phê bình văn học hiện đại ở Nhật, dựa trên lý thuyết thẩm mỹ của Karl von Hartmann. Hầu hết thời gian làm việc về sau của ông thì liên quan đến tiểu sử và lịch sử.
Những tiểu thuyết được ưa chuộng nhất của Ōgai, Gan (1911–13; The Wild Geese/Ngỗng trời), xuất bản năm 1881 ở Tokyo được chuyển thể thành phim bởi Shiro Toyoda năm 1953 với tựa đề the Mistress/ Bà chủ nhà
Tên thực của Mori là Rintarō (林太郎). Ōgai viết đúng là 鷗外 nhưng nhiều máy tính không hiện đúng ký tự kanji này và chữ 鴎外 thường được dùng thay thế.
Ngôi nhà nơi Mori từng sống được bảo quản ở khu vực Kokura Kita thuộc Kitakyushu, không xa nhà ga Kokura. Tại đây ông viết Kokura Nikki (Nhật ký Kokura). Ngôi nhà nơi ông sinh ra được bảo quản ở Tsuwano.
Một trong những người con gái của Mori, Mori Mari, có những ảnh hưởng tới sự vận động của Yaoi trong nền văn học Nhật Bản đương đại.
[sửa] Tác phẩm tiêu biểu
- Maihime (1890, 舞姫 The Dancing Girl/ Nàng vũ công)
- Utakata no ki (1890, Foam on the Waves/ Truyện người ca kỹ)
- Fumizukai (1891, The Courier/ Người đưa thư)
- Wita sekusuarisu (1909, ヰタ・セクスアリス Vita Sexualis/ Tính dục)
- Seinen (1910, Tuổi trẻ)
- Gan (1911–13, 雁 The Wild Geese/ Ngỗng trời)
- Okitsu Yagoemon no isho (1912, The Last Testament of Okitsu Yagoemon/ Thư trối trăn của Okitsuyaemon)
- Sanshō Dayū (1915, 山椒大夫 Sanshō the Steward/ Truyện của Sanshô, người kể dạo)
- Shibue Chūsai (1916, Sáp Giang, Trừu Trai)
- Takasebune (1916, 高瀬舟 The Boat on the Takase River/ Thuyền giải tù)
[sửa] Liên kết ngoài
- Mori Ôgai, nhà văn và nhà tư tưởng khai sáng trên Việt Nam Net (22 tháng 6 năm 2006)