Dương Tử
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Dương Tử (định hướng).
- Mục từ Trường Giang dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Trường Giang (định hướng).
Dương Tử | |
---|---|
Dòng chảy của Dương Tử qua Trung Quốc | |
Thượng nguồn | Thanh Hải và Tây Tạng |
Cửa sông | Đông Hải |
Các quốc gia lưu vực | Trung Quốc |
Độ dài | 6,380 km (3,965 dặm) |
Cao độ thượng nguồn | 6,548 m (21,484 ft) |
Lưu lượng trung bình | 31,900 m³/s (1,126,708 ft³/s) |
Diện tích lưu vực | 1,800,000 km² (694,980 dặm²) |
Sông Dương Tử (扬子江 Hán-Việt: Dương Tử Giang), còn có tên gọi phổ biến hơn là Trường Giang (giản thể: 长江; phồn thể: 長江; pinyin: Cháng Jiāng; Wade-Giles: Ch'ang Chiang), là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở châu Phi và sông Amazôn ở Nam Mỹ.
, Yángzǐ Jiāng hay Yangtze Kiang;Sông Trường Giang dài khoảng 6.380 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc (tỉnh Thanh Hải) và chạy về phía đông đổ ra Đông Hải Trung Quốc. Thông thường nó được coi như điểm phân chia giữa miền bắc và miền nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài (淮河) cũng đôi khi được coi như vậy.
Mục lục |
[sửa] Tên gọi
Tên gọi Dương Tử nguyên thủy là tên gọi của người dân khu vực hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó. Tuy nhiên, vì tên này được các nhà truyền giáo châu Âu nghe thấy đầu tiên nên đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ cả con sông (Yangtse, Yangtze Kiang). Phần còn lại của bài này sẽ dùng tên Trường Giang để chỉ con sông này. Con sông này đôi khi còn được gọi là Thủy lộ Vàng (Golden Waterway).
Con sông này mang nhiều tên khác nhau tùy theo khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi là Vbri-chu (འབྲི་ཆུ་ trong tiếng Tây Tạng, nghĩa là "dòng sông bò yak cái"). Ở thượng nguồn, trong tỉnh Thanh Hải nó được gọi là Đà Đà Hà (沱沱河), Đương Khúc Hà (當曲河), Thông Thiên Hà (通天河). Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa Giang (金沙江). Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương được gọi là Xuyên Giang (川江). Đoạn từ Nghi Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam được gọi là Kinh Giang (荊江) (xưa là đất Kinh Châu). Cuối cùng, khi chảy qua khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tô nó được gọi là Dương Tử Giang (揚子江). Một số học giả cho rằng chữ "giang" (江) (âm Hán cổ của 江 là "kroong") có nguồn gốc phát âm từ các ngôn ngữ trong hệ ngôn ngữ Nam Á (như "sông" trong tiếng Việt hay "krung" trong tiếng Mông cổ, tham khảo bài viết về "các dân tộc Nam Á ở miền nam Trung Quốc xưa").
[sửa] Đặc trưng
Trường Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về độ dài, lượng chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đông bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Đông Hải.
Vào tháng 6 năm 2003 công trình đập Tam Hiệp đã nối liền hai bờ sông, làm ngập lụt thị trấn Phụng Tiết, là khu dân cư đầu tiên trong các khu vực dân cư chịu ảnh hưởng của dự án kiểm soát lụt lội và phát điện này. Dự án này là lớn nhất so với các dự án thủy lợi khác trên thế giới. Nó sẽ giải phóng người dân hai bờ con sông này khỏi cảnh ngập lụt là mối đe dọa thường xuyên trong quá khứ cũng như cung cấp cho họ điện năng và vận tải thủy - mặc dù phải chấp nhận hy sinh vĩnh viễn một số thành phố và tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ sinh thái khu vực.
Con sông này cũng là nơi sinh sống duy nhất của một số động vật trong danh sách báo động nguy hiểm như cá heo sông Trung Quốc (năm 1998 chỉ còn khoảng 7 con) hay cá kiếm Trung Quốc (cá tầm thìa).
Sông Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Nó nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa dạng từ vận chuyển than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy trên sông trong vài ngày sẽ đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ thông hơn làm cho du lich Trung Quốc phát triển.
Những trận ngập lụt dọc theo hai bờ sông đã từng là vấn đề lớn, lần gần đây nhất là năm 1998, nhưng gây thảm họa lớn hơn cả là năm 1954. Trận ngập lụt sông Dương Tử này đã giết chết khoảng 30.000 người. Những trận ngập lụt nặng nề nhất diễn ra năm 1911 giết chết khoảng 100.000 người, năm 1931 (145.000 người chết) và năm 1935 (142.000 người chết).
[sửa] Các thành phố nổi tiếng dọc bờ sông
- Nghi Tân
- Lô Châu
- Trùng Khánh
- Phong Đô
- Nghi Xương (Bạch Đế Thành)
- Sa Thị tức Kinh Châu cũ gắn với tên tuổi Quan Vũ thời Tam Quốc
- Trấn Giang
- Vũ Hán do Hán Dương, Hán Khẩu và Vũ Xương hợp thành
- Cửu Giang
- Tô Châu
- Quý Trì
- Nam Kinh
- Thượng Hải
[sửa] Một số sông nhánh
- Đà Giang
- Tương Giang
- Hán Thủy
- Nhã Lung Giang
- Mạnh Giang
- Gia Lăng Giang
- Ô Giang
- Cảm Giang
[sửa] Hồ nổi tiếng
[sửa] Xem thêm
- Đồng bằng Giang Nam
- Danh sách các sông Trung Quốc
- Đập Tam Hiệp
- Địa lý Trung Quốc