Bùi Hữu Nghĩa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bùi Hữu Nghĩa là nhà thơ làm quan triều Nguyễn, hiệu Nghị Chi. Ông sinh năm 1807 mất năm 1872, quê tại thôn Long Tuyền, phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh (nay là Cần Thơ).
[sửa] Thi cử
Sinh trưởng trong một gia đình ngư dân, nhờ có người giúp ông theo học cụ Đồ Hoành. Năm 1835 ông đậu giải nguyên trong kỳ thi hương ở Gia Định. Vì thế được gọi là Thủ khoa Nghĩa.
[sửa] Làm quan
Sau khi đỗ kỳ thi hương, ông được bổ làm tri phủ Phúc Long, sau bị giáng xuống làm tri huyện Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long.
Ông là người cương trực, bênh vực người nghèo nên không được quan trên ưa. Ông bị vu xúi dân nổi loạn, bị bắt giam và kết án tử hình. Vợ ông lặn lội ra triều đình kêu oan cho chồng, ông được tha tội chết, giáng chức làm thủ ngữ coi đồn Vĩnh Thông, Châu Đốc.
Chán cảnh tham quan ô lại, ông lui về dạy học và tham gia phong trào Cần vương chống Pháp năm 1868.
[sửa] Thơ
Là một nhà thơ ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng:
- Kim thạch kỳ duyên (tuồng Nôm)
- Quan công thất phủ hạ bì
- Hạ ám mộ cảnh
- Văn tế vợ
- Thơ khóc vợ
- Tây du
- Mậu tùng
Âm hưởng thơ chủ đạo của ông nói lên lòng yêu nước thương dân.