Ebooks, Audobooks and Classical Music from Liber Liber
a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z





Web - Amazon

We provide Linux to the World


We support WINRAR [What is this] - [Download .exe file(s) for Windows]

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
SITEMAP
Audiobooks by Valerio Di Stefano: Single Download - Complete Download [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Alphabetical Download  [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Download Instructions

Make a donation: IBAN: IT36M0708677020000000008016 - BIC/SWIFT:  ICRAITRRU60 - VALERIO DI STEFANO or
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Sứ đồ Phao-lô – Wikipedia tiếng Việt

Sứ đồ Phao-lô

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phao-lô

Phao-lô thành Tarsus (còn gọi là Saul, Paulus, Thánh Tông đồ Phao-lô hoặc Sứ đồ Phao-lô; sinh 3–14 TCN; mất 62–69 CN) được xem là nhân tố chính giúp quảng bá và phát triển Cơ Đốc giáo trong thời kỳ sơ khai. Nhiều tín hữu Cơ Đốc xem ông là nhà thần học quan trọng nhất giải thích những giáo huấn của Chúa Giê-xu. Theo ký thuật của Tân Ước, Phao-lô là người Do Thái chịu ảnh hưởng văn minh Hi Lạp, và là công dân của Đế quốc La Mã, đến từ thành Tarsus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Phao-lô là người kiên trì săn đuổi những tín hữu Cơ Đốc ban đầu (hầu hết là người Do Thái) để bách hại họ, cho đến khi chính ông trải qua kinh nghiệm lạ lùng trên đường đến thành Damascus, trải nghiệm này đã đem ông đến với đức tin Cơ Đốc và chấp nhận Chúa Giê-xu là Đấng Messiah và là Con Thiên Chúa. Sau khi chịu lễ báp têm, Paul đến ngụ cư ở xứ Arabia (có lẽ là Nabataea) cho đến khi ông gia nhập cộng đồng tín hữu Cơ Đốc còn non trẻ ở Jerusalem, và ở lại với Peter (Phêrô hoặc Phi-e-rơ) trong mười lăm ngày (Gal 1. 13-18[1]). Qua những thư tín gởi các cộng đồng Cơ Đốc, Phao-lô trình bày mạch lạc quan điểm của ông về mối quan hệ giữa tín hữu Cơ Đốc người Do Thái với tín hữu Cơ Đốc không phải dân Do Thái, và giữa Luật pháp Moses (Mô-sê hoặc Môi-se) với giáo huấn của Chúa Giê-xu.

Phao-lô được sùng kính như một vị thánh bởi các nhóm khác nhau như Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Anh giáo, và một số người thuộc giáo hội Luther. Ông được xem là thánh đỡ đầu của Malta và Thành Luân Đôn, một vài thành phố khác được đặt tên để vinh danh ông như São Paulo, Brazil và Saint Paul, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Đạo Mormon xem ông là nhà tiên tri.

Các thư tín của Phao-lô hình thành phần nền tảng của Tân Ước (được xem là nguồn quan trọng cho nền thần học của hội thánh ban đầu) cùng những nỗ lực của ông nhằm truyền bá Cơ Đốc giáo trong vòng các dân tộc, là mục tiêu của nhiều khuynh hướng luận giải khác nhau. Cơ Đốc giáo truyền thống xem các thư tín của Phao-lô là một phần của kinh điển Tân Ước và xác quyết rằng tư tưởng của Phao-lô là hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Chúa Giê-xu và các sứ đồ khác.

Những người ủng hộ thần học giao ước tin rằng Hội thánh đã thay thế dân tộc Do Thái trong vị trí Tuyển dân của Thiên Chúa, khơi mở những tranh luận hiện vẫn tiếp diễn xem xác quyết này có phải bắt nguồn từ ý tưởng của Phao-lô khi ông giải thích Jeremiah 31. 31[2] và Ezekiel 36. 27[3], sau đó xác quyết này được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Cơ Đốc giáo.

Mục lục

[sửa] Cuộc đời

Có thể sử dụng hai nguồn chính để tái tạo những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Phao-lô: các thư tín của ông và những ký thuật trong sách Công vụ các Sứ đồ. Có một vài khó khăn khi dựa vào hai nguồn thông tin này: những thư tín của Phao-lô được viết trong quãng thời gian tương đối ngắn (có lẽ khoảng từ năm 50 – 58), và có những nghi vấn về một số sự kiện trong sách Công vụ. Riêng về Thứ kinh Công vụ của Phao-lô và Thecla, các học giả thường không công nhận sách này, cho đó chỉ là một tác phẩm văn học được sáng tác trong thế kỷ thứ 2, do các sự kiện được chép trong đó không phù hợp với những ký thuật của sách Công vụ các Sứ đồ và các thư tín của Phao-lô.

[sửa] Tuổi trẻ

Theo lời tự thuật của Phao-lô, ông là người Israel thuộc chi phái Benjamin, được cắt bì vào ngày thứ tám, và là một người Pharisee (La Mã 11.1[4]; Phil 3.5[5]), và “...là người sốt sắng quá đỗi về cựu truyền của tổ phụ” (Gal 1.14). Phao-lô chào đời với tên Saul tại thành Tarsus xứ Cilicia, được trưởng dưỡng trong nền giáo dục Do Thái. Theo sách Công vụ, Phao-lô có quốc tịch La Mã - một đặc quyền mà ông đã dùng đến vài lần để tự bảo vệ mình (Công vụ 22.25[6]; 27-29[7]).

Quan điểm được chấp nhận rộng rãi cho rằng Phao-lô chưa hề kết hôn. Chính Phao-lô đã viết;”Vậy, tôi nói với người những kẻ chưa cưới gả, và kẻ goá bụa rằng ở được như tôi thì hơn” (1Côr 7.8). Không có chứng cớ lịch sử nào đề cập đến việc Phao-lô đã lập gia đình. Tuy nhiên, một số người biện luận rằng tập quán xã hội thời ấy đòi hỏi người Pharisee và thành viên Toà Công luận (Sanhedrin) phải lập gia đình. Nếu Phao-lô là người Pharisee và có thể là thành viên Toà Công luận, thì có lẽ ông đã kết hôn vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời.

Theo Công vụ 22.3[8], Phao-lô ở Jerusalem, theo học Gamaliel, một học giả tiếng tăm thời ấy. Khi đi nhiều nơi để rao giảng Phúc âm, Phao-lô thường tự lo sinh kế cho mình (1Côr 9. 13-15[9]); theo Công vụ 18. 3 Phao-lô từng sống với nghề may trại. Theo La Mã 16.2, Pheobe là người có những đóng góp tài chính hầu hỗ trợ ông trong sứ mạng rao giảng phúc âm.

[sửa] Qui đạo

Theo lời tự thuật của Phao-lô, ông tìm mọi cách để săn đuổi và bách hại các tín hữu Cơ Đốc cho đến chết (Philippians 3.6[10]), theo ký thuật của sách Công vụ, ông có mặt trong số những người chứng kiến cái chết của Stephen, người tử đạo đầu tiên của Cơ Đốc giáo (Công vụ 7. 57-58[11]; 22.20[12]), nhưng về sau Phao-lô đã chấp nhận đức tin Cơ Đốc:

Bấy giờ, Saul chỉ hằng ngăm đe và chém giết môn đồ của Chúa không thôi, đến cùng thầy cả thượng phẩm, xin người những bức thư đề gởi cho các nhà hội thành Damascus, hầu cho hễ gặp người nào thuộc về đạo, bất kỳ đàn ông đàn bà, thì trói giải về thành Jerusalem. Nhưng Saul đang đi đường gần đến thành Damascus, thình lình có ánh sáng từ trời soi sáng chung quanh người. Người té xuống đất, và nghe có tiếng phán cùng mình rằng: Hỡi Saul, Saul, sao ngươi bắt bớ ta? Người thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa là ai? Chúa phán rằng: Ta là Giê-xu mà ngươi bắt bớ; nhưng hãy đứng dây, vào trong thành, người ta sẽ cho ngươi mọi điều phải làm. Những kẻ đi cùng với người đều đứng lại sững sờ, nghe tiếng nói mà chẳng thấy ai hết. Saul chờ dậy khỏi đất, mắt dẫu mở, nhưng không thấy chi cả; người ta bèn cầm lấy tay dắt người đến thành Damascus; người ở đó ba ngày, chẳng thấy, chẳng ăn và cũng chẳng uống.” (Công vụ 9. 1-9; xem thêm lời giải trần của Phao-lô trước Vua Agrippa ở Công vụ 26, và Galatians 1. 13-16).

Sau trải nghiệm tiếp nhận Cơ Đốc giáo, Phao-lô lưu lại vài ngày ở Damascus rồi đến sống ở vương quốc Nabatea mà ông gọi là “Arabia”, rồi trở lại Damascus, khi ấy đang ở dưới sự cai trị của người Nabatea. Ba năm sau khi qui đạo, Phao-lô bị buộc phải rời khỏi thành phố qua cổng Kisan trong ban đêm do phản ứng của giới cầm quyền Do Thái đối với lời giảng của ông. Về sau Phao-lô đến Jerusalem, gặp James Người công chính (Giacôbe hoặc Gia-cơ) và Peter, ông ở với Peter trong 15 ngày.

Cổng Kisan, nơi Phao-lô trốn khỏi thành Damascus
Cổng Kisan, nơi Phao-lô trốn khỏi thành Damascus

Sau chuyến viếng thăm Jerusalem, Phao-lô đến thành Antioch, từ đó ông bắt đầu cuộc hành trình qua Cyprus và miền nam vùng Tiểu Á để rao giảng Phúc âm của Chúa Giê-xu - được biết đến với tên “Hành trình Truyền giáo Thứ nhất của Phao-lô” (Công vụ 13.1 – 14.28). Tại Derbe, Phao-lô và Barnabas bị ngộ nhận là “thần linh ... trong hình dạng loài người” (14.11). Những thư tín của Phao-lô nhắc đến việc ông giảng dạy tại Syria và Cilicia (Gal 1. 21-22[13]), sách Công vụ ký thuật rằng Phao-lô “trải qua xứ Syria và Cilicia, làm cho các hội thánh được bền vững” (Công vụ 15.41).

Trong các cuộc hành trình truyền giáo, Phao-lô thường chọn một hoặc hai người cùng đi với ông, đó là Barnabas, Silas, Titus, Timothy, John còn gọi là Mark, Aquila, Priscilla và thầy thuốc Luca. Ông nếm trải nhiều điều khổ ải dưới các hình thức khác nhau như bị giam cầm ở Philippi, bị roi vọt và ném đá, chịu đói khát, và suýt thiệt mạng vì một âm mưu sát hại ông (2Cor 11.24-27[14]).

[sửa] Thành lập các giáo đoàn

Trong những năm kế tiếp, Phao-lô đi khắp phía tây của vùng Tiểu Á, lần này ông tiến vào xứ Macedonia và thành lập giáo đoàn Cơ Đốc đầu tiên tại thành Philippi, tại đây ông phải đối diện với nhiều khó khăn. Phao-lô thuật lại kinh nghiệm của mình:”Sau khi bị đau đớn và sỉ nhục tại thành Philippi, như anh em đã biết, thì chúng tôi trông cậy Thiên Chúa, cứ rao truyền đạo Tin Lành của Thiên Chúa cách dạn dĩ giữa cơn đại chiến” (1Thess 2.2). Sách Công vụ, từ góc nhìn của một nhân chứng, thuật lại việc Phao-lô đuổi quỉ khỏi một phụ nữ nô lệ, làm người ấy mất khả năng bói toán và vì vậy làm giảm trị giá của người nô lệ; do đó, chủ nô cho ông là “kẻ cắp”, và bắt giam ông (Công vụ 16. 16-24). Phao-lô đi đến thành Thessalonica, lưu lại ở đây một thời gian trước khi vào Hi Lạp. Trước tiên ông đến Athens, nơi ông có bài thuyết giảng đã trở thành huyền thoại trên đồi Areopagus khi ông soi dẫn cho những người có mặt ở đây biết ai là “Chúa Không biết” mà họ vẫn thờ phụng (Công vụ 17. 16-34). Kế đó, Phao-lô đến thành Corinth, lưu trú ở đó ba năm và viết thư nhất gởi tín hữu ở Thessalonica.

Một lần nữa, Phao-lô lại vướng vào vòng lao lý ở thành Corinth (Công vụ 18. 12-16) khi một nhóm người Do Thái cáo buộc Phao-lô “xúi giục dân chúng thờ Thiên Chúa cách trái nghịch với luật pháp”. Phao-lô bị kéo đến trước quan trấn thủ Gallio, nhưng ông này cho đây là một việc không đáng quan tâm và bác bỏ cáo trạng. Một di chỉ ở Delpphi có nhắc đến tên Gallio, giúp xác định sự kiện này xảy ra trong năm 52, góp phần tái tạo bảng niên đại về cuộc đời của Phao-lô.

Phao-lô tiếp tục công cuộc rao giảng Phúc âm, thường được gọi là “Hành trình Truyền giáo Thứ ba” (Công vụ 18.23 – 21.26), trải qua khắp vùng Tiểu Á và Macedonia, đến Antioch rồi quay trở lại. Nỗ lực thuyết giáo của Phao-lô gặp phải những phản ứng giận dữ trong một hí viện ở Ephesus, khi lợi tức của giới thợ bạc ở đây bị thiệt hại do ảnh hưởng từ những lời thuyết giảng của ông. Thu nhập của những người này phụ thuộc vào nghề làm tượng nữ thần Artemis được cư dân địa phương sùng bái; hệ quả là đám đông bạo động vây phủ Phao-lô khiến ông và những người bạn suýt bị mất mạng (Công vụ 19. 21-41). Về sau, khi Phao-lô trên đường đến thành Jerusalem, có đi qua thành Ephesus nhưng không lưu lại ở đó vì ông phải đến Jerusalem cho kịp lễ Ngũ Tuần. Dù vậy, Phao-lô đã triệu tập các trưởng lão của hội thánh tại Ephesus đến gặp ông tại Miletus. Tại đây, Phao-lô giải bày với họ những trải nghiệm cá nhân cũng như khuyên bảo và khích lệ họ (Công vụ 20. 16-38).

[sửa] Giam cầm

Khi đến Jerusalem, Phao-lô đối diện với lời đồn đại cho rằng ông chống lại luật pháp Moses. Để chứng minh việc tuân giữ luật pháp, Phao-lô giữ lời thề Nazarite với bốn người khác (Công vụ 21. 21-26). Sau bảy ngày cho kỳ lễ tinh sạch gần trọn, Phao-lô bị bắt giữ và hành hung ngay bên ngoài Đền thờ bởi một đám đông cuồng loạn kêu la:”Hỡi người Israel, hãy đến giúp với! Kìa, người này giảng dạy khắp thiên hạ, nghịch cùng dân, nghịch cùng luật pháp, và nghịch cùng chốn này nữa, đến nỗi hắn dẫn người Hi Lạp vào trong đền thờ, và làm cho nơi thánh này bị ô uế”. (Công vụ 21. 28). Khi một đội binh La Mã đến cứu Phao-lô khỏi đám đông đang giận dữ, họ kéo đến cáo buộc Phao lô là kẻ mưu phản, “kẻ xách động thuộc phe Nazareth”, kẻ rao giảng sự sống lại của người chết. Phao-lô cố gắng giải thích và trình bày đức tin của mình với đám đông bằng ngôn ngữ của họ, có lẽ là tiếng Aram, nhưng đám đông càng bất bình kêu to, “Hãy cất người dường ấy khỏi thế gian, nó chẳng đáng sống đâu!” (Công vụ 22. 22). Phao-lô viện dẫn quyền công dân La Mã để xin được xét xử tại Rôma, nhưng do sự trì trệ của tổng đốc Antonius Felix, ông bị giam giữ hai năm ở Caesarea cho đến khi quan tổng đốc mới, Porcius Festus, đến nhậm chức, nghe giải trình và cho giải Phao-lô bằng đường biển đến La Mã, ở đây ông bị giam giữ thêm hai năm trong tù (Công vụ 28. 30).

Đến đây chúng ta bị buộc phải dựa vào các truyền thuyết nếu muốn có thêm thông tin chi tiết về những ngày cuối cùng của Phao-lô. Theo một truyền thuyết, Phao-lô đã đến Tây Ban NhaAnh quốc. Có lẽ Phao-lô đã có ý định ấy, nhưng vẫn không có chứng cớ rằng ông đã thực hiện chuyến đi. Theo một truyền thuyết khác, Phao-lô đã chết ở La Mã. Eusebius thành Caesarea (khoảng 275 – 339) cho rằng Phao-lô đã bị xử chém đầu trong thời trị vì của Nero, hoàng đế La Mã, có thể là năm 64, khi thành La Mã bị thiêu rụi bởi một cơn hoả hoạn, hoặc vài năm sau đó, khoảng năm 67.

[sửa] Đến La Mã, những ngày sau cùng

Sách Công vụ các Sứ đồ ký thuật chi tiết hành trình chuyến đi của Phao-lô từ Caesarea đến La Mã. Quản cơ Julius giải giao Phao-lô và những tù nhân khác bằng thuyền, có lẽ Luca và Aristarchus cùng đi trên tàu. Vì đang mùa giông bão, cuộc hành trình vừa chậm vừa gian khổ. Họ đi dọc bờ biển Syria, Cicilia và Pampylia. Đến thành Myra trong xứ Lycia, tù nhân được chuyển sang một tàu khác để đến Ý. Phải khó nhọc lắm tàu mới cập bến Mỹ cảng trên đảo Crete. Phao-lô đưa ra lời khuyên nên nghỉ đông ở đây, nhưng họ không chịu nghe theo và tiếp tục cuộc hành trình. Tàu bị bão, trôi giạt trong mười bốn ngày, sau cùng bị mắc cạn trên bờ biển Malta. Đoàn người phải lưu lại trên đảo suốt ba tháng, ở đó Phao-lô chữa lành bệnh sốt và bệnh lỵ cho thân phụ của tù trưởng của đảo, Publius, và những người khác. Khi mùa xuân đến, đoàn người lại lên đường.

Sách Công vụ ký thuật cuộc đời của Phao-lô cho tới khi ông đến La Mã, lúc ấy ước chừng 61 tuổi. Cuốn sách kết thúc với những lời cáo trách của Phao-lô khi nói chuyện với một nhóm người Do Thái tìm đến để tra hỏi và chế giễu ông về Phúc âm:

Hãy đến nơi dân này và nói rằng;
Các ngươi lấy tai nghe mà chẳng hiểu chi;
Lấy mắt xem mà chẳng thấy gì;
Vì lòng dân này đã nặng nề;
Họ bịt tai; Họ nhắm mắt;
E rằng mắt mình sẽ thấy,
Tai mình sẽ nghe,
Lòng mình sẽ hiểu,
Và họ sẽ trở lại,
Để ta chữa lành chăng.
Vậy, hãy biết rằng
Sự cứu rỗi này của Thiên Chúa đã sai đến cho người ngoại;
Những người đó sẽ nghe theo vậy. (Công vụ 28. 26-28)

[sửa] Tác phẩm

Thánh Phao-lô viết các thư tín
Thánh Phao-lô viết các thư tín

Phao-lô viết nhiều thư tín gởi các hội thánh và những cá nhân. Tuy vậy, có lẽ có một số đã không còn được lưu giữ. 1Cor 5.9 có thể được xem như là một gợi ý về thư tín trước đó ông đã gởi các tín hữu thuộc giáo đoàn Corinth nhưng nay không còn. Những thư tín vẫn còn lưu giữ đều được đưa vào Tân Ước, theo thứ tự từ dài đến ngắn. Có một ít thư tín được viết trong khi ông bị giam giữ, thường được gọi là “thư viết trong tù”, theo truyền thuyết những lá thư này được viết ở La Mã.

Những thư tín có được sự đồng thuận về quyền tác giả của Phao-lô:

  • La Mã
  • 1Corinthians
  • 2Corinthians
  • Galatians
  • Philippians*
  • 1Thessalonians
  • Philemon*

Những “thư tín giống như của Phao-lô” (nhiều học giả tin rằng như thư này không phải do chính Phao-lô viết, nhưng thường được cho rằng ông là tác giả)

  • Ephesians*
  • Colossians*
  • 2Thessalonians

Những thư tín mục vụ của Phao-lô:

  • 1Timothy
  • 2Timothy
  • Titus

Ghi chú: Những thư tín có dấu * thuộc nhóm những bức thư viết trong tù.

[sửa] Thần học

Tư tưởng của Phao-lô ảnh hưởng đậm nét trên thần học Cơ Đốc giáo trong những lãnh vực như đức tin, sự xưng công chính, cứu rỗi, mối quan hệ giữa Cơ Đốc nhân và luật pháp Moses, Chúa Cơ Đốc học (Christology), Thánh Linh học, nguyên tội, chung thời học (eschatology) và bản chất của đời sau, cũng như vị trí của Kinh Thánh Do Thái trong Cơ Đốc giáo.

[sửa] Đức tin và Sự xưng công chính

Phao-lô tập chú vào vị trí trọng tâm của đức tin trong sự cứu rỗi được ban cho qua cuộc đời Chúa Giê-xu, và khả năng được xưng công chính qua đức tin ấy (La Mã 3.22[15]; Gal 3.22[16]). Ông đã viết câu trứ danh: “Vì chúng ta kể rằng người ta được xưng công bình bởi đức tin, chớ không phải bởi việc làm theo luật pháp” La Mã 3.28), luôn luôn nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa sự xưng công chính và đức tin. Phao-lô luận giải mạch lạc và thuyết phục khái niệm của ông về đức tin trong những luận văn đậm nét thần học về Abraham (xem Thư Phao-lô gởi tín hữu Galatia), sự công chính, và sự tha thứ tội lỗi. Cùng với sự dạy dỗ của Phao-lô về sự phục sinh và sự sống vĩnh hằng, cái nhìn thấu suốt của Phao-lô về thần học đức tin và sự xưng công chính là mục tiêu của nhiều sự luận giải, dẫn đến những tranh luận về việc xưng công chính chỉ bởi đức tin đối nghịch với sự xưng công chính bởi đức tin và công đức. Hầu hết các giáo hội Kháng Cách khẳng quyết rằng tư tưởng Phao-lô đã giúp hình thành định nghĩa cho rằng sự cứu rỗi đến chỉ từ đức tin mà không bởi bất cứ nỗ lực bên ngoài nào của tín hữu (xem Năm Tín lý Duy nhất), bất đồng với quan điểm của Công giáo Rôma và Chính Thống giáo cho rằng ý tưởng của Phao-lô đã bị hiểu sai và không phù hợp với lời dạy của James (Giacôbê hoặc Gia-cơ): “Nhơn đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi” (James 2.24).

[sửa] Sự Cứu rỗi và Luật pháp Moses

Vấn đề có còn cần thiết phải tuân giữ Luật pháp Moses để được cứu rỗi được nêu lên trong thời kỳ Hội thánh tiên khởi tại Giáo hội nghị Jerusalem, ở đó quan điểm của Phao-lô đã tạo ra ảnh hưởng đáng kể. Những tác phẩm của Phao-lô trình bày học thuyết cho rằng có được sự cứu rỗi không phải bởi nỗ lực tuân giữ luật pháp Moses nhưng do đức tin tiếp nhận Chúa Giê-xu. Phao-lô xác quyết rằng không có sự phân biệt nào hết giữa người Do Thái và các dân tộc khác “vì mọi người đều phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Thiên Chúa” (La Mã 3.23). Vì vậy Phao-lô được xem là nhân tố chính thúc đẩy việc chấp nhận người “ngoại bang” (không phải dân Do Thái) gia nhập Cơ Đốc giáo mà không có bất cứ yêu cầu tuân giữ nghi thức Do Thái như phép cắt bì hoặc kiêng cữ một số thức ăn.

[sửa] Nguyên tội

Trong Tân Ước, giáo lý nguyên tội (tội tổ tông) được luận giải mạch lạc bởi Phao-lô. Ông viết: “Bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội....” (La Mã 5.12). Về sau giáo lý này được trình bày cặn kẽ bởi các nhà thần học Cơ Đốc, nổi bật nhất là Augustine thành Hippo. (Xem Nguyên tội)

[sửa] Chúa Cơ Đốc học và Thánh Linh học

Phao-lô luận giải xác tín của ông trong giáo lý về thần tính của Chúa Cơ Đốc. Ông viết: “Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài (Chúa Cơ Đốc), bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả. Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài”. (Col 1. 16-17). Phao-lô cũng miêu tả Chúa Giê-xu là “ảnh tượng của Thiên Chúa” (“Ấy chính Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa không thấy được, là Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên” Col 1. 15; 2Cor. 4.4[17]). Tương tự, Phao-lô trình bày một học thuyết vững chắc về Chúa Thánh Linh. Phần lớn Thư La Mã và phần cuối Thư Corinthians thứ nhì miêu tả Chúa Thánh Linh bình đẳng với Chúa ChaChúa Con, giúp hình thành giáo lý Ba Ngôi. Trong thư Galatians, Phao-lô giải thích rằng việc tín hữu nhận lãnh Chúa Thánh Linh là do lời hứa Thiên Chúa dành cho Abraham thể hiện qua sự chết cứu chuộc của Chúa Giê-xu (Gal 4. 4-7[18]), và xác chứng rằng, “Lại nếu anh em thuộc về Chúa Cơ Đốc, thì anh em là dòng dõi của Abraham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa.” (Gal 3. 29).

[sửa] Các vấn đề xã hội

Quan điểm của Phao-lô về các vấn đề xã hội có ảnh hưởng lớn trên nền văn hoá Cơ Đốc, giống như những quan điểm thần học của ông.

Trong thư gởi tín hữu ở Colossae, Phao-lô cho biết người theo Chúa cần phải có cuộc sống tích cực như thế nào - ấy là theo đuổi những chuẩn mực của thiên đàng, không phải của trần thế. Trong suốt nhiều thế kỷ, những chuẩn mực ấy có ảnh hưởng đáng kể trên xã hội phương Tây. Phao-lô kết án những hành vi như bất khiết, dâm dục, tham lam, giận dữ, vu khống, phỉ báng, dối trá và phân biệt chủng tộc trong khi ông đề cao những đức hạnh như nhân ái, tử tế, nhẫn nại, tha thứ, yêu thương, hoà bình, và biết ơn (Col 3. 1-17).

Phao-lô kết án sự dâm dục và việc thực hành đồng tính luyến ái, ông viết “Hãy tránh xa sự dâm dục. Mặc dầu người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự dâm dục, thì phạm đến chính thân thể mình.” (1Cor 6. 18; La Mã 1. 26-28[19]).

Phao-lô cũng dạy về sự tự do trong Chúa Cơ Đốc (Gal 5; 1Cor 8; Col 2. 6-23), sự thờ phượng đúng cách và kỷ cương trong hội thánh (1Cor 11), sự hiệp nhất của các tín hữu (1Cor 1. 10-17; Eph 4. 1-6), và hôn nhân (1Cor 7; Eph 5. 21-33). Phao-lô khuyến khích tín hữu theo đuổi cuộc sống độc thân “vì cớ tai vạ hầu đến”, nhưng cảnh cáo rằng cả cuộc sống hôn nhân và cuộc đời độc thân đều có thể không tốt nếu không thuận phục ý Chúa. Ông nhắc nhở, “Vậy tôi nói với những kẻ chưa cưới gả và kẻ goá bụa rằng ở được như tôi thì hơn. Song nếu họ chẳng thìn mình được, thì hãy cưới gả; vì thà cưới gả còn hơn để cho tình dục un đốt.” (1Cor 7. 8,9).

Về việc sở hữu nô lệ, Phao-lô dạy rằng vì ngày Chúa Giê-xu tái lâm đã gần kề, tín hữu nên chú tâm vào đời sống đức tin hơn là vào địa vị xã hội (1Cor 7. 21-23). Phao-lô khuyên nhủ người nô lệ nên trung tín phục vụ chủ mình và người làm chủ phải tôn trọng và đối đãi tử tế với nô lệ hoặc người làm công “vì biết rằng cả hai đều có một chủ chung trên trời, và trước mặt Ngài chẳng có sự tây vị ai hết.” (Eph 6. 5-9). Phao-lô cũng tìm cách chuộc Onesimus, một nô lệ bỏ trốn, và yêu cầu người chủ xem Onesimus “không phải là nô lệ nữa, nhưng như anh em rất yêu dấu” (Philemon 16). Nhiều người xem đây là một hành động biểu thị tinh thần chống sở hữu nô lệ của Phao-lô, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội thời ấy, xem việc sở hữu nô lệ là một quyền công dân.

[sửa] Chú thích

  1. Vả, anh em đã nghe lúc trước tôi theo giáo Giu-đa (Do Thái giáo), cách cư xử của tôi là thế nào, tôi bắt bớ và phá tán Hội thánh của Thiên Chúa quá chừng; tôi tấn tới trong giáo Giu-đa hơn nhiều người cùng tuổi cùng nước với tôi, tôi là người sốt sắng quá đỗi về cựu truyền của tổ phụ tôi. Nhưng khi Thiên Chúa, là Đấng đã để riêng tôi ra từ lúc còn trong lòng mẹ, và lấy ân điển gọi tôi, vui lòng bày tỏ Con của Ngài ra trong tôi, hầu cho tôi rao truyền Con đó ra trong người ngoại đạo, thì lập tức tôi chẳng bàn với thịt và máu. Tôi cũng không lên thành Jerusalem, đến cùng những người đã làm sứ đồ trước tôi, song tôi đi qua xứ Arabia; sau rồi trở về thành Damascus. Kế đó, mãn ba năm, tôi lên thành Jerusalem, đặng làm quen với Cephas (Peter), và tôi ở với người mười lăm ngày.” Gal 1. 13-18
  2. Đức Giê-hô-va phán: Này, những ngày đến, bấy giờ ta sẽ lập một giao ước mới với nhà Israel và với nhà Giu-đa.” Jeremiah 31. 31
  3. Ta sẽ đặt thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo.” Ezekiel 36. 27
  4. ”... vì chính tôi là dân Israel, dòng dõi Abraham, về chi phái Benjamin.” La Mã 11.1
  5. Tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Israel, chi phái Benjamin, người Hebrew, con của người Hebrew; về luật pháp , thì thuộc phe Pharisee;” Philippians 3.5
  6. Họ đang căng người ra để đánh đòn thì Phao-lô nói cùng thầy đội đương đứng đó rằng: Ngươi được phép đánh đòn một người quốc dân Rôma, mặc dù người đó chưa thành án hay sao?” Công vụ 22.25
  7. Quản cơ đến hỏi Phao-lô rằng: Hãy nói cho ta biết, ngươi có phải là quốc dân Rôma chăng? Người trả lời: Phải. Quản cơ lại nói: Ta đã mua được quyền lợi quốc dân đó cao giá lắm. Phao-lô nói: Còn phần tôi thì có quyền lợi đó từ lúc mới sinh ra. Tức thì, những kẻ tra khảo người đều tránh xa ra; và khi quản cơ biết người mình đã biểu trói lại đó là quốc dân Rôma thì sợ hãi lắm.” Công vụ 22. 27-29
  8. Tôi là người Giu-đa, sinh tại thành Tarsus, trong xứ Cilici, nhưng nuôi tại đây, trong thành này, học nơi chân Gamaliel, đúng theo trong luật pháp của tổ phụ chúng ta.” Công vụ 22.3
  9. Anh em há chẳng biết rằng ai hầu việc thánh thì ăn của dâng trong đền thờ, còn ai hầu việc nơi bàn thờ thì có phần nơi bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa có truyền rằng ai rao giảng Tin Lành thì được nuôi mình bằng Tin Lành. Phần tôi thì chẳng từng dùng quyền ấy chút nào, và viết thư này chẳng phải để đòi quyền ấy lại: vì tôi đành thà chết còn hơn là chịu ai cất lấy cớ khoe mình này đi.” 1Cor 9. 13-15
  10. về lòng sốt sắng, là kẻ bắt bớ Hội thánh” Philippians 3.6
  11. Bấy giờ, chúng kêu lớn tiếng, bịt tai, cùng nhau chạy lại, kéo người [Stephen] ra ngoài thành rồi ném đá người. Các kẻ làm chứng lấy áo xống mình để nơi chân một người trẻ tuổi tên Saul.” Công vụ 7. 57-58
  12. Lại khi Stephen là kẻ làm chứng cho Chúa bị đổ máu, tôi ở đó đành lòng và giữ áo xống những kẻ giết người” Công vụ 22.20
  13. Sau lại, tôi đi qua các miền thuộc xứ Syria và Cilicia, bấy giờ tôi còn là kẻ lạ mặt trong các hội thánh tại xứ Judea, là các hội ở trong Chúa Cơ Đốc.” Gal 1.21-22
  14. ”...năm lần bị người Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm. Lại nhiều lần tôi đi đường, nguy trên sông bến, nguy với trộm cướp, nguy giữa dân mình, nguy với dân ngoại, nguy trong các thành, nguy trong đồng vắng, nguy trên biển, nguy với anh em giả dối; chịu khó chịu nhọc, lắm lúc thức đêm, chịu đói khát, thường khi phải nhịn ăn, chịu lạnh và loã lồ.” 2Cor11. 24-27
  15. tức là sự công bình của Thiên Chúa, bởi sự tin đến Chúa Giê-xu Cơ Đốc, cho mọi người nào tin. Chẳng có sự phân biệt chi hết,” La Mã 3.22
  16. ”Nhưng Kinh Thánh đã nhốt hết thảy mọi sự dưới tội lỗi, hầu cho điều chi đã hứa, bởi đức tin trong Chúa Giê-xu Cơ Đốc mà được ban cho kẻ tin.” Gal 3.22
  17. những kẻ chẳng tin mà chúa đời này làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành của Chúa Cơ Đốc, là ảnh tượng của Thiên Chúa” 2Cor. 4. 4
  18. Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Thiên Chúa bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sinh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, và cho chúng ta làm con nuôi Ngài. Lại vì anh em là con, nên Thiên Chúa đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha! Dường ấy, ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con; và nếu ngươi là con, thì cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Thiên Chúa.” Gal 4. 4-7
  19. Ấy vì cớ đó mà Thiên Chúa phó họ cho sự tình dục xấu hổ; vì trong vòng họ, những người đàn bà đã đổi cách dùng tự nhiên ra cách khác nghịch với tính tự nhiên. Những người đàn ông cũng vậy, bỏ cách dùng tự nhiên của người đàn bà mà un đốt tình dục người này với kẻ kia, đàn ông cùng đàn ông phạm sự xấu hổ, và chính mình họ phải chịu báo ứng xứng với điều lầm lỗi mình. Tại họ không lo nhìn biết Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã phó họ theo lòng hư xấu đặng phạm những sự chẳng xứng đáng.” La Mã 1. 26-28

[sửa] Xem thêm

[sửa] Tham khảo

  • Badenas, Robert. Christ the End of the Law, Romans 10.4 in Pauline Perspective 1985 ISBN 0905774930 argues that telos is correctly translated as goal, not end, so that Christ is the goal of the Law, end of the law would be antinomianism
  • Brown, Raymond E. An Introduction to the New Testament. Anchor Bible Series, 1997. ISBN 0385247672.
  • Bruce, F.F., Paul: Apostle of the Heart Set Free (ISBN 0802847781)
  • Raymond Davis, The Book of Pontiffs (Liber Pontificalis). Liverpool: University of Liverpool Press, 1989. ISBN 0-85323-216-4 (an English translation for elementary student use).
  • Dunn, James D.G. Jesus, Paul and the Law 1990 ISBN 0664250955
  • Hart, Michael. The 100. Carol Publishing Group, July 1992. Paperback, 576 pages. ISBN 0806513500.
  • Maccoby, Hyam. The Mythmaker: Paul and the Invention of Christianity. New York: Harper & Row, 1986. ISBN 0060155825.
  • MacDonald, Dennis Ronald, 1983. The Legend and the Apostle : The Battle for Paul in Story and Canon Philadelphia: Westminster Press.
  • Irenaeus, Against Heresies, i.26.2
  • Thomas Jefferson, from a letter addressed to W. Short and published in The Great Thoughts, by George Seldes, Ballantine Books, N.Y., 1985, p. 208

[sửa] Liên kết ngoài

Our "Network":

Project Gutenberg
https://gutenberg.classicistranieri.com

Encyclopaedia Britannica 1911
https://encyclopaediabritannica.classicistranieri.com

Librivox Audiobooks
https://librivox.classicistranieri.com

Linux Distributions
https://old.classicistranieri.com

Magnatune (MP3 Music)
https://magnatune.classicistranieri.com

Static Wikipedia (June 2008)
https://wikipedia.classicistranieri.com

Static Wikipedia (March 2008)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com/mar2008/

Static Wikipedia (2007)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com

Static Wikipedia (2006)
https://wikipedia2006.classicistranieri.com

Liber Liber
https://liberliber.classicistranieri.com

ZIM Files for Kiwix
https://zim.classicistranieri.com


Other Websites:

Bach - Goldberg Variations
https://www.goldbergvariations.org

Lazarillo de Tormes
https://www.lazarillodetormes.org

Madame Bovary
https://www.madamebovary.org

Il Fu Mattia Pascal
https://www.mattiapascal.it

The Voice in the Desert
https://www.thevoiceinthedesert.org

Confessione d'un amore fascista
https://www.amorefascista.it

Malinverno
https://www.malinverno.org

Debito formativo
https://www.debitoformativo.it

Adina Spire
https://www.adinaspire.com