Ebooks, Audobooks and Classical Music from Liber Liber
a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z





Web - Amazon

We provide Linux to the World


We support WINRAR [What is this] - [Download .exe file(s) for Windows]

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
SITEMAP
Audiobooks by Valerio Di Stefano: Single Download - Complete Download [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Alphabetical Download  [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Download Instructions

Make a donation: IBAN: IT36M0708677020000000008016 - BIC/SWIFT:  ICRAITRRU60 - VALERIO DI STEFANO or
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Tu-160 – Wikipedia tiếng Việt

Tu-160

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hình:Tu 16019.jpg
Một chiếc Tupolev Tu-160 đang bay

Tupolev Tu-160 (tên của NATO: Blackjack) là một máy bay ném bom hạng nặng, siêu âm có thể thay đổi hình dạng được thiết kế bởi Liên bang Xô viết. Nó là bản thiết kế máy bay ném bom chiến lược cuối cùng của Liên Xô và là máy bay chiến đấu lớn nhất từng được chế tạo. Được đưa ra giới thiệu năm 1987, việc chế tạo máy bay này vẫn đang tiếp tục, với 14 chiếc hiện đang phục vụ trong Không quân Nga.

Mục lục

[sửa] Lịch sử

Cuộc cạnh tranh sản xuất một loại máy bay siêu âm ném bom chiến lược được Liên bang Xô viết khởi xướng năm 1967. Chiếc máy bay mới này phải có tốc độ bay vượt Mach 3, để đối đầu với loại XB-70 Valkyrie của Mỹ. Ngay sau đó mọi người thấy rằng loại máy bay như vậy quá đắt và khó chế tạo, vì thế các tiêu chuẩn của nó được hạ thấp xuống (ở Mỹ, dự án XB-70 đã bị bãi bỏ).

Tu-160 nhìn từ bên
Tu-160 nhìn từ bên

Năm 1972 Liên bang Xô viết đưa ra dự án về một loại máy bay ném bom đa nhiệm vụ mới với các tính năng: siêu âm, thay đổi hình dạng (máy bay ném bom hạng nặng "cánh cụp cánh xoè") với tốc độ tối đa lên tới Mach 2.3, để cạnh tranh với dự án máy bay ném bom B-1 của Không quân Hoa Kỳ. Phòng thiết kế Tupolev đưa ra mẫu thiết kế có cánh kéo dài với tên hiệu Aircraft 160M, kết hợp một số yếu tố của loại Tu-144, để cạnh tranh với các bản thiết kế của Myasishchev M-18 và Sukhoi T-4. Thiết kế của Myasishchev đề xuất một máy bay có thể thay đổi hình dạng, được coi là kiểu thành công nhất, dù Tupolev được đánh giá cao về khả năng thực hiện dự án. Cuối cùng, năm 1973 Tupolev được chỉ định làm công ty phát triển loại máy bay mới dựa trên thiết kế của Myasishchev.

Dù dự án B-1A đã bị bãi bỏ năm 1977, công việc phát triển loại máy bay ném bom mới của Xô viết vẫn tiếp tục, và cùng trong năm đó, thiết kế của nó đã được ủy ban nhà nước chấp nhận. Mẫu của loại máy bay này đã được một hành khách trên một chuyến bay thương mại chụp ảnh tại sân bay Zhukovski vào tháng 11, 1981, khoảng một tháng trước khi chuyến bay đầu tiên của nó diễn ra (ngày 18 tháng 12, 1981). Năm 1984 máy bay được phép sản xuất, bắt đầu tại Tổ hợp hàng không Kazan. Loại máy bay này, ký hiệu Tu-160 (ký hiệu của nhà sản xuất "aircraft 70" hay "product K"), ban đầu được dự kiến sản xuất 100 chiếc, dù trên thực tế mới chỉ có 35 chiếc xuất xưởng, gồm cả ba mẫu. Mẫu thứ hai đã bị phá hủy trong một chuyến bay thử nghiệm năm 1987, tổ lái đã nhảy dù thoát an toàn. Vì thiếu vốn nên hoạt động chế tạo diễn ra chậm chạp, và đã ngừng lại năm 1994, dù một số chiếc vẫn ở tình trạng chưa hoàn thành.

Tu-160 được giới thiệu trước công chúng lần đầu tiên trong một cuộc duyệt binh năm 1989. Trong năm 1989–1990 nó cũng đã lập ra 44 kỷ lục thế giới về tốc độ đối với máy bay ở hạng trọng lượng của nó. Việc phân chia loại máy bay này về các phi đội Không quân tầm xa đã bắt đầu từ tháng4, 1987. Tới năm 1991 19 trong số đó phục vụ trong Trung đoàn bảo vệ ném bom chiến lược số 184 ở Pryluki tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Ukraina, thay thế những chiếc Tu-16 'Badger' và Tu-22M3 'Backfire'. Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ những máy bay đó trở thành tài sản của Ukraina, dù một thỏa thuận năm 1999 giữa NgaUkraina dẫn tới việc Ukraina trao trả lại cho Nga tám chiếc để đổi lấy việc Nga giảm bớt số nợ năng lượng của Ukraina. Ukraina đã chính thức từ bỏ vũ khí hạt nhân, nên đã phá hủy những chiếc Blackjack thuộc sở hữu của họ, chỉ giữ lại vỏ ngoài để trưng bày.

Đơn vị Tu-160 thứ hai của Nga, Trung đoàn bảo vệ ném bom chiến lược số 121 đóng tại Engels, đã được thành lập năm 1992, nhưng tới năm 1994 nó chỉ nhận được ba chiếc. Từ năm 1999 đến 2000 tám chiếc của Ukraina trước kia đã được trao cho trung đoàn, một chiếc nữa đang được hoàn thiện trong nhà máy và sẽ được chuyển giao năm 2000. Ít nhất một chiếc đã hỏng trong một chuyến bay thử sau khi sửa chữa động cơ ngày 16 tháng 9, 2003.

Có 14 chiếc Tu-160 đang phục vụ ở thời điểm tháng 11, 2005. Hai chiếc khác mới sản xuất đang sắp hoàn thành ở Nhà máy hàng không Kazan, một chiếc đang được dự tính đưa vào sử dụng tháng 3, 2006, chiếc kia sẽ sau một năm.

Năm 2001, sáu chiếc Tu-160 khác được dùng làm máy bay thực nghiệm ở Zhukovski, bốn chiếc trong số đó vẫn sử dụng được.

Ngày 30 tháng 12, 2005, theo sắc lệnh của Tổng thống Nga Vladimir Putin, Tu-160 chính thức được đưa vào sử dụng trong Không quân Liên bang Nga. Ngày 25 tháng 4, 2006, sĩ quan chỉ huy Igor Khvorov trong quân đội Nga đã tuyên bố rằng những chiếc Tu-160 mới có thể xâm nhập không phận Hoa Kỳ mà không bị phát hiện. Nếu lời tuyên bố này được chứng minh, có nghĩa là Không quân Nga đã phát triển thành công một kỹ thuật tàng hình. Trung Quốc cũng được cho là đang ở giai đoạn cao trong việc phát triển kỹ thuật tàng hình cho các máy bay ném bom tầm xa của họ.

[sửa] Miêu tả

Tu-160 rất giống với loại B-1B Lancer của Bắc Mỹ dù nó lớn hơn và bay nhanh hơn khá nhiều.

Blackjack có cùng kiểu cánh hỗn hợp và thay đổi hình dạng, với góc nghiêng tùy chọn từ 20° tới 65°. Phía trước và sau cánh có các tấm cánh lái (slat - flap). Tu-160 có hệ thống kiểm soát fly-by-wire.

Blackjack sử dụng bốn động cơ phản lực cánh quạt đẩy đốt hai lần NK-32, loại động cơ mạnh nhất từng được lắp cho máy bay chiến đấu. Không giống như loại B-1B, vốn đã loại bỏ yêu cầu tốc độ Mach 2+ của loại B-1A nguyên bản, nó giữ các cửa hút gió biến đổi, và có thể bay hơi nhanh hơn Mach 2.

Tu-160 được trang bị một hệ thống nạp nhiên liệu trên không cho phép tăng tầm hoạt động, dù nó hiếm khi được sử dụng bởi số lượng nhiên liệu nạp lớn lên tới 130 tấn, khiến không cần tái nạp nhiên liệu nó cũng có thể hoạt động 15 giờ.

Dù Tu-160 được thiết kế để giảm khả năng bị cả radar và các hệ thốnghồng ngoại phát hiện, nó không phải là một máy bay tàng hình. Các nguồn tin Nga tuyên bố rằng nó có diện tích phản hồi radar (RCS) nhỏ hơn chiếc B-1B, nhưng điều này chưa từng được kiểm định độc lập, và có lẽ là không đúng bởi vì chiếc Blackjack có cửa hút khí và diện tích cánh lớn hơn. Blackjack được trang bị một radar tấn công ("Obzor-K", NATO "Clam Pipe") trong một mái che máy radar chất điện môi hơi hướng lên trên, và một radar theo dõi mặt đất "Sopka" riêng biệt, khiến nó có thể bay hoàn toàn tự động ở độ cao thấp. Tu-160 có một máy ngắm ném bom điện quang, và các hệ thống ECM chủ động và thụ động.

Đội bay Tu-160 gồm bốn người (phi công, phi công phụ, sĩ quan điều khiển các hệ thống vẹ khí và người điều hành các hệ thống phòng vệ) với các ghế phóng K-36DM. Phi công sử dụng thanh điều khiển kiểu máy bay chiến đấu, nhưng các dữ liệu bay vẫn theo kiểu đồng hồ thông thường. Một khu vực nghỉ ngơi cho đội bay, một toilet và một bếp được thiết kế phục vụ cho những chuyến bay dài. Nó không có hệ thống hiển thị trên mũ bay, và cũng không có các thiết bị hiển thị CRT đa chức năng như trên máy bay nguyên bản, tuy nhiên các kế hoạch nhằm hiện đại hoá toàn bộ Tu-160 đã được thông báo từ năm 2003. Nó sẽ có thêm một hệ thống kiểm soát bay số mới và khả năng mang các kiểu vũ khí mới khác, như các tên lửa hành trình tầm xa không mang đầu đạn hạt nhân.

Các loại vũ khí được chứa trong hai khoang vũ khí, mỗi khoang có thể chứa 20,000 kg (44,400 lb) các loại vũ khí rơi tự do hay một máy phóng quay cho các tên lửa hạt nhân. Tu-160 không được trang bị các loại vũ khí phòng thủ, biến nó thành loại máy bay ném bom đầu tiên của Sô viết thời hậu chiến không được trang bị vũ khí.

Hình:Tu 160.jpg
Tupolev Tu-160 nhìn từ bên trên.

[sửa] Các biến thể

Một phiên bản thương mại phi quân sự của loại Blackjack với tên gọi Tu-160SK, đã được trưng bày tại triển lãm hàng không Singapore năm 1994 với một mô hình một phương tiện vũ trụ nhỏ tên là Burlak gắn bên dưới thân. Năm 1995 Tupolev đã thông báo kế hoạch cộng tác với hãng OHB-System của Đức nhằm chế tạo ra các máy bay dùng làm phương tiện phóng; chính phủ Đức sau đó đã rút vốn năm 1998. Theo các thông tin được đưa ra, việc phát triển vẫn đang tiếp tục, dù số tiền cung cấp cho dự án từ Cộng đồng các quốc gia độc lập rất ít ỏi.

Nhiều biến thể khác cũng đã được đề xuất, nhưng không được chế tạo, bao gồm:

  • Tu-160S: được dự định để sử dụng cho seri Tu-160s khi cần phân biệt chúng với toàn bộ các loại đã từng được chế tạo trước đó và những chiếc thực nghiệm [1]
  • Tu-160V: phiên bản sử dụng nhiên liệu hydro lỏng (xem thêm Tu-155) [2]
  • Tu-160 NK-74: phiên bản cải tiến (mở rộng tầm bay) với các động cơ NK-74 [3]
  • Tu-160M: máy bay ném bom được kéo dài thân mang hai tên lửa siêu âm tầm xa Kh-90 (3M25 Meteorit-A)
  • Tu-160P (Tu-161): một máy bay chiến đấu/đánh chặn hộ tống tầm bay rất xa
  • Tu-160PP: một máy bay chiến tranh điện tử mang thiết bị cân bằng nhiễu (stand-off jamming) và ECM (tiếng Nga: ПП - постановщик помех)
  • Tu-160R: một máy bay trinh sát chiến lược
  • Tu-160SK: phiên bản thương mại, được thiết kế để phóng các vệ tinh bên trong hệ thống "Burlak" (tiếng Nga: Бурлак, "hauler") [4].
  • Tu-170: một máy bay ném bom quy ước (được chuyển đổi để tránh các hạn chế của SALT-2)

[sửa] Những nước sử dụng

  • Nga
  • Ukraine (đã ngừng hoạt động)

[sửa] Đặc điểm kỹ thuật (Tu-160)

Hình chiếu đứng của Tupolev Tu-160.
  • tổ lái=4 (phi công, phi công phụ, người cắt bom, người điều hành hệ thống phòng thủ)
  • chiều dài chính=54.1 m
  • chiều dài quy đổi=177 ft 6 in
  • sải cánh chính=
    • Mở rộng (nghiêng 20°): 55.70 m
  • sải cánh quy đổi=189 ft 9 in)
    • Nghiêng (nghiêng 65°): 35.60 m (116 ft 10 in
  • chiều cao chính=13.10 m
  • chiều cao quy đổi=43 ft 0 in
  • diện tích chính=
    • Mở rộng: 400 m²
  • diện tích quy đổi=4,310 ft²)
    • Nghiêng: 360 m² (3,875 ft²
  • trọng lượng rỗng chính=110,000 kg
  • trọng lượng rỗng quy đổi=242,500 lb
  • trọng lượng có tải chính=267,600 kg
  • trọng lượng có tải quy đổi=590,000 lb
  • trọng lượng cất cánh tối đa chính=275,000 kg
  • trọng lượng cất cánh tối đa quy đổi=606,000 lb
  • động cơ (phản lực)=Samara/Trud NK-321
  • kiểu động cơ=turbin cánh quạt
  • số lượng động cơ=4
  • lực đẩy chính=137 kN
  • lực đẩy quy đổi=30,900 lbf
  • lực đẩy tái đốt nhiên liệu chính=245 kN
  • lực đẩy tái đốt nhiên liệu quy đổi=55,100 lbf
  • tốc độ tối đa chính=Mach 2.05
  • tốc độ tối đa quy đổi=2,220 km/h, 1,380 mph
  • tăng tốc độ tối đa=ở độ cao lớn hơn
  • tầm hoạt động chính=12,300 km
  • tầm hoạt động quy đổi=6,640 nm, 7,640 mi
  • tăng tầm hoạt động=không tiếp dầu trên không
  • trần bay=15,000 m
  • trần bay quy đổi=49,200 ft
  • climb rate main=70 m/s
  • climb rate alt=13,780 ft/min
  • chất tải chính=743 kg/m² với cánh nghiêng hết ra phía sau
  • chất tải quy đổi=152 lb/ft²
  • lực đẩy/trọng lượng=0.37
  • trang bị vũ khí=
    • 2 khoang chứa vũ khí bên trong 40,000 kg (88,200 lb), có thể gồm:
      • 2 máy phóng quay mỗi cái giữ 6× tên lửa hành trình Raduga Kh-55 (trang bị nguyên bản) hay 12× tên lửa hạt nhân tầm ngắn Raduga Kh-15

}}

[sửa] Tham khảo

  1. "Aviation and cosmonautics" magazine, 5.2006 ISSN 168-7759, p.10
  2. "Aviation and cosmonautics" magazine, 5.2006 ISSN 168-7759, p.10
  3. "Aviation and cosmonautics" magazine, 5.2006 ISSN 168-7759, p.10
  4. "Aviation and cosmonautics" magazine, 5.2006 ISSN 168-7759, p.11

[sửa] Các vấn đề liên quan

Tiêu bản:Aircontent

Các loại máy bay do hãng Tupolev sản xuất
Máy bay dân dụng
Tu-70 - Tu-104 - Tu-110 - Tu-114 - Tu-124 - Tu-134 - Tu-144 - Tu-154 - Tu-204 - Tu-214 - Tu-334 - Tu-444
Máy bay quân sự
Tu-14 - Tu-16 - Tu-20 - Tu-22 - Tu-22M - Tu-28 - Tu-95 - Tu-126 - Tu-142 - Tu-160
Các hãng sản xuất máy bay của Nga
Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev
Our "Network":

Project Gutenberg
https://gutenberg.classicistranieri.com

Encyclopaedia Britannica 1911
https://encyclopaediabritannica.classicistranieri.com

Librivox Audiobooks
https://librivox.classicistranieri.com

Linux Distributions
https://old.classicistranieri.com

Magnatune (MP3 Music)
https://magnatune.classicistranieri.com

Static Wikipedia (June 2008)
https://wikipedia.classicistranieri.com

Static Wikipedia (March 2008)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com/mar2008/

Static Wikipedia (2007)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com

Static Wikipedia (2006)
https://wikipedia2006.classicistranieri.com

Liber Liber
https://liberliber.classicistranieri.com

ZIM Files for Kiwix
https://zim.classicistranieri.com


Other Websites:

Bach - Goldberg Variations
https://www.goldbergvariations.org

Lazarillo de Tormes
https://www.lazarillodetormes.org

Madame Bovary
https://www.madamebovary.org

Il Fu Mattia Pascal
https://www.mattiapascal.it

The Voice in the Desert
https://www.thevoiceinthedesert.org

Confessione d'un amore fascista
https://www.amorefascista.it

Malinverno
https://www.malinverno.org

Debito formativo
https://www.debitoformativo.it

Adina Spire
https://www.adinaspire.com