Ebooks, Audobooks and Classical Music from Liber Liber
a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z





Web - Amazon

We provide Linux to the World


We support WINRAR [What is this] - [Download .exe file(s) for Windows]

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
SITEMAP
Audiobooks by Valerio Di Stefano: Single Download - Complete Download [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Alphabetical Download  [TAR] [WIM] [ZIP] [RAR] - Download Instructions

Make a donation: IBAN: IT36M0708677020000000008016 - BIC/SWIFT:  ICRAITRRU60 - VALERIO DI STEFANO or
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
IQ – Wikipedia tiếng Việt

IQ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Sự phân bố IQ trên người. Chỉ số IQ 100 tương ứng với mức thông minh trung bình của người.
Sự phân bố IQ trên người. Chỉ số IQ 100 tương ứng với mức thông minh trung bình của người.

Chỉ số thông minh, hay IQ (viết tắt của intelligence quotient trong tiếng Anh), là một con số được xác định ở mỗi người sau khi hoàn tất một bộ kiểm tra. Bài kiểm tra đó xác định khả năng hoàn thành một số nhiệm vụ mà những người sống trong một xã hội thường gặp, và từ đó xác định khả năng học hỏi và lặp lại những cách "sử dụng trí thông minh". Những bài kiểm tra gồm nhiều phần thường được sử dụng vì nó thể hiện khả năng phỏng đoán chính xác khả năng phát triển trí lực của con người về sau, đặc biệt là khả năng đọc và viết (literacy).

IQ của một người được xác định bằng cách xác định tỉ lệ số điểm họ đạt được với số điểm trung bình của những nhóm tuổi khác nhau đạt được. IQ không phải là một số đo tuyệt đối như chiều cao, cân nặng. IQ chỉ là một tỉ lệ giữa "tuổi trí lực" và "tuổi thực tế" của con người. Những bài kiểm tra IQ cũng chỉ được thiết kế để thể hiện sự khác nhau giữa những nhóm người trong cùng một nền văn hóa.

Nhiệm vụ chính của chỉ số IQ là chẩn đoán và chữa trị những chứng bệnh gây hạn chế đến khả năng học tập, và xác định trình độ học vấn cùng tuyển chọn nhân viên. Chỉ số IQ có thể bị hạn chế vì những lí do về thời gian (tuổi tác), hay những chứng bệnh có thể gây hạn chế học tập. Tuy nhiên, chúng vẫn có thể được cải thiện bởi một chế độ giáo dục tốt. Dù vậy, những bài kiểm tra IQ vẫn tập trung vào việc xác định những rắc rối đối với khả năng đọc, viết, suy luận trong tương lai.

Đối với những người sống trong những nước phát triển, IQ có tính chất di truyền rất cao, nhưng đối với một người lớn thì sự ảnh hưởng của gia đình lên chỉ số IQ rất không rõ ràng. Những sự khác nhau về trí thông minh trong một gia đình có thể được giải thích bằng những dạng đặc trưng của một gene kết hợp với sự tác động của môi trường bên ngoài khác nhau đối với từng thành viên trong gia đình. Ở Hoa Kỳ, có một số gia đình có anh chị em có chỉ số IQ chênh lệch nhau đến hơn 12 điểm.

Chỉ số IQ thường được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, và một số quan niệm khác là sẽ liên quan đến hiệu suất công việc, quan hệ xã hội. Tuy nhiên sự liên quan giữa IQ với thành công còn phải dựa vào nhiều yếu tố khác nhau, trong số đó là quan trọng nhất là "chỉ số cảm xúc" (EQ hay EIQ), vẫn còn nằm trong vòng tranh cãi. IQ thường được dùng bởi những nhà tâm lý học để xác định một khía cạnh của thông minh (như trí thông minh sáng tạo, trí thông minh hình học,...) nhưng không thể dùng để đánh giá trí thông minh của một người một cách tổng quát. Những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa IQ và sức khỏe, tuổi thọ (những người thông minh thường có nhiều kiến thức hơn trong việc chăm sóc bản thân) và cả số lượng từ mà người đó sử dụng.

Trong thế kỉ 20, chỉ số IQ trung bình của con người tăng lên một cách rất chậm: đó được gọi là hiệu ứng Flynn. Nhưng chúng ta vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn những sự thay đổi đó thể hiện chính xác sự thông minh dần thêm của con người. Trung bình chỉ số IQ trong một đời người hầu như không tăng hay giảm. Tuy nhiên vẫn có một ít người trải qua những sự thay đổi rất lớn. Ví dụ như trong một số tài liệu, một số chứng bệnh ảnh hưởng học tập có thể ảnh hưởng gây giảm chỉ số IQ rất lớn (Shaywitz, 1995).

Mục lục

[sửa] IQ và những nhân tố chính

Những bài kiểm tra IQ hiện đại đành giá con người ở những lĩnh vực khác nhau (ngôn ngữ, logic, trí tưởng tượng ba chiều,... ) với số điểm chung là tổng của tất cả những phần trên. Có một điều lạ là những kết quả người ta đạt được trong những phần khác nhau trong một bài kiểm tra có vẻ liên quan với nhau trong khi nội dung của chúng thì không có gì là giống nhau cả. Điều này làm những nhà khoa học cho rằng khi có sự chênh lệch lớn trong những kết quả đó cũng thể hiện một chứng bệnh ảnh hưởng đến học tập. Những bài kiểm tra thường được xây dựng trên phương diện buộc người làm phải suy luận, bởi vì phương pháp đó thường cho thấy những rắc rối trong tương lai trong chuyện học mà một người có thể gặp phải trong tương lai.

Những nhà khoa học cho rằng phân tích kết quả của một cá nhân trên những phần khác nhau trong một bài kiểm tra IQ hay những bài kiểm tra IQ khác nhau (ví dụ: Stanford-Binet, WISC-R, Raven's Progressive Matrices,...) sẽ cho thấy tất cả đều thể hiện các yếu tố: yếu tố chung (hay là yếu tố g) và các yếu tố riêng khác dựa trên từng bài kiểm tra. Thông thường chỉ số g và IQ gần bằng nhau (sai số khoảng 10%) và có thể sử dụng lẫn cho nhau.

[sửa] Di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh

Vai trò của di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh là một đề tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau được biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Ta có thể hiểu một cách khác là hệ số di truyền là phần trăm khả năng di truyền cho đời sau của một gene. Nghiên cứu ở những cặp sinh đôi và những gia đình có nhận con nuôi là những nơi thường được nghiên cứu nhiều nhất. Cho đến gần đây hệ số di truyền hầu hết chỉ được nghiên cứu ở trẻ em và người ta cho rằng hệ số di truyền trung bình là 0.5. Điều này cho thấy một nửa số trẻ trong nghiên cứu có gene đã biến dị. Phần còn lại được giải thích rằng do tính toán sai hay do yếu tố môi trường. Con số 0.5 cho thấy trí thông minh một phần là do thừa kế từ cha mẹ. Nghiên cứu ở người lớn tuy vẫn chỉ ở những mức rất sơ khai nhưng cũng có những kết quả rất thú vị: hệ số di truyền có thể lến đến 0.8. Hiệp hội tâm lý học Hoa Kì vào năm 1995 trong công trình "Intelligence: Knowns and Unknowns" (Trí thông minh: những điều đã biết và chưa biết) kết luận rằng hệ số di truyền là "khoảng 0.75".[1]

[sửa] Môi trường

Yếu tố môi trường đóng vai trò rất lớn trong nhiệm vụ xác định trí thông minh trong một số trường hợp. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý trong lúc nhỏ được cho là rất quan trọng; sự dinh dưỡng kém có thể làm suy giảm trí thông minh. Một số nghiên cứu khác về yếu tố môi trường còn cho rằng thai phụ trước khi sinh hay cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và muối khoáng quan trọng có thể ảnh hưởng đến IQ của đứa bé. Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất. Do đó, trong một xã hội đang phát triển càng hiện đại hơn, trí thông minh của con người càng di truyền.

Theo như một số nguồn khác,[2] đối với hầu hết những tính cách khác nhau, trái ngược với những điều được mong đợi, những ảnh hưởng từ môi trường lên những trẻ em được nhận nuôi khác hẳn so với những trẻ em được nuôi bởi chính cha mẹ của chúng. Nói một cách khác, người ta thấy con nuôi có hệ số di truyền trí thông minh vào khoảng 0.32. Tuy vậy, những ảnh hưởng trên hoàn toàn bị xóa bỏ khi đến tuổi trưởng thành.

Những ảnh hưởng của môi trường lên gene cũng được nghiên cứu. Điều này cũng được coi là một yếu tố môi trường, nhưng thay vì xác phụ thuộc của IQ vào gene, người ta nghiên cứu sự phụ thuộc giữa gene vào môi trường. Một trong số những nghiên cứu trên cho rằng 40% sự khác nhau trong một gia đình là do sự biến dị của gene.

[sửa] Phát triển

Có nhiền người tin rằng sự ảnh hưởng của gene lên chỉ số IQ càng ngày càng kém quan trọng trong cuộc sống khi con người già đi và học hỏi thêm càng nhiều kinh nghiệm. Thật ngạc nhiên là điều ngược lại lại xảy ra. Đối với trẻ em, hệ số di truyền là 0.2 (20%), một thiếu niên là 0.4 và có thể lên đến 0.8 đối với người lớn.[3]

Những ảnh hưởng của gia đình cũng có vẻ biến mất khi lớn lên. Những trẻ em nuôi sau khi lớn lên có hệ số di truyền hầu như không hề liên quan (gần 0), trong khi những anh chị em cùng cha mẹ thì con số đó là 0.6. Nghiên cứu về những cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy con số đó sẽ được nâng lên đến 0.86.[3]


[sửa] Sự chậm phát triển trí não

Khoảng 75-80% sự chậm phát triển trí não là do di truyền, và 20-25% còn lại là do những nguyên nhân bên trong cơ thể như sự bất thường ở các nhiễn sắc thể hay chấn thương ở não.[4] Sự chậm phát triển trí tuệ từ nhẹ đến vừa có thể có nguyên nhân là do sự rối loạn của một gene cho đến nhiều nhiễm sắc thể bất thường, có thể bao gồm hiện tượng mất đoạn nhiễm sắc thể. Theo như nhiên cứu trên những cặp sinh đôi, sự kém phát triển trí tuệ từ vừa đến nặng là không do yếu tố di truyền, nhưng dạng nhẹ của bệnh lại là do di truyền. Đó cũng là lý do họ hàng của những người kém phát triển trí tuệ nặng hầu hết đều bình thường còn trong những gia đình có người kém phát triển trí tuệ nhẹ thì có chỉ số IQ thấp hơn hẳn so với mức trung bình.

Bảng chỉ số IQ

  • kém phát triển trí tuệ dạng nhẹ: có IQ từ 50-55 đến 70, trẻ em như thế cần giúp đỡ nhẹ nhàng.
  • kém phát triển trí tuệ dạng trung bình: có IQ từ 35-40 đến 50-55, trẻ em cầy giúp đỡ nhiều và theo dõi.
  • kém phát triển trí tuệ dạng nặng: có IQ từ 20-25 đến 35-40, trẻ chỉ có thể được dạy các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống, cần được theo dõi thường xuyên.
  • kém phát triển trí tuệ dạng rất nặng: có IQ dưới 20-25, thường bị gây ra bởi những vấn đề về hệ thần kinh, rất cần chăm sóc thường xuyên.

Tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở nam cao hơn ở nữ, ở người da đen cao hơn người khác, theo như một nghiên cứu năm 1991 của Trung tâm Điều khiển và Phòng chống Dịch bệnh (CDC).[5]

Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung là 1.66% cho người da đen và 0.68% cho người da trắng. Đối với nam, da đen thì có tỉ lệ cao nhất: gấp 1.7 lần nữ, da đen; 2.4 lần so với nam, da trắng và 3.1 lần so với nữ, da trắng.

Những người có chỉ số IQ dưới 70 ở Hoa Kì sẽ được miễn tội tử hình từ năm 2002.[4]

[sửa] IQ và sự liên quan đến giáo dục và thu nhập

Nghiên cứu của Tambs cùng những cộng sự (1989) cho thấy rằng bằng cấp đạt được, nghề nghiệp cũng như IQ là di truyền được; và hơn nữa cho thấy rằng gene ảnh hưởng rất lớn lên thành công trong học tập, khoảng 25% nghề nghiệp và gần 50% biến dị về gene lên IQ. Rowe cùng những cộng sự trong công trình nghiên cứu năm 1987 cho rằng sự không đồng đều trong thu nhập và giáo dục đến hầu hết từ gene, và các yếu tố môi trường chỉ có vai trò rất phụ

[sửa] Sự quay lại

Sự di truyền của chỉ số IQ cho thấy khả năng IQ của một đứa trẻ bị ảnh hưởng từ IQ của cha mẹ. Bởi vì chỉ số IQ luôn nhỏ hơn 1 nên chỉ số IQ của đứa trẻ sẽ có xu hướng quay lại về chỉ số IQ chuẩn của dân số chung. Có thể nói, một cặp bố mẹ có chỉ số thông minh cao có nhiều khả năng có những đứa con kém thông minh hơn họ. Trong khi đó, những cặp bố mẹ có chỉ số IQ có chỉ số thông minh thấp lại có xu hướng có những đứa con thông minh hơn. Hiệu ứng trên có thể được biểu diễn bởi công thức:

\hat y = \bar x + h^2 \left ( \frac{m + b}{2} - \bar x \right)

Trong đó:

  • \hat{y}: chỉ số IQ dự đoán của đứa bé
  • \bar{x}: chỉ số IQ trung bình của xã hội
  • h2: hệ số di truyền của chỉ số IQ
  • mb: chỉ số thông minh của mẹ và bố đứa bé.

Vì vậy, nếu hệ số di truyền là 50%, một cặp có IQ trung bình là 120 và sống trong xã hội có IQ trung bình là 100 thì con của họ có nhiều khả năng có IQ là 110

[sửa] IQ và bộ não

[sửa] Kích cỡ bộ nào

Những nghiên cứu hiện đại sử dụng kĩ thuật MRI cho thấy kích cỡ bộ não có liên quan đến IQ với một hệ số là khoảng 0.4.[6] Một nghiên cứu trên những cặp sinh đôi do Thompson cùng những cộng sự xuất bản vào năm 2001 cho thấy rằng chất xám có liên quan đến hệ số g và cũng có hệ số di truyền rất cao (một nghiên cứu gần đây cho thấy con số đó là 0.85) và hệ số g là 0.4, do đó có lẽ còn có một nguyên nhân di truyền nào đó.[7]

[sửa] Những vùng não tương ứng với IQ

Nhiền nguồn thông tin khác nhau cùng đồng ý ở một điểm là não trước đóng một vai trò quyết định trong việc hình thành những "dòng suy nghĩ". Những bệnh nhân có những vấn đề về não trước có kết quả IQ kém hơn.[8] Thể tích của chất xám vùng não trước[9] và chất trắng[8] cũng đã được cho là có liên quan mật thiết với trí thông minh tổng quát. Tuy nhiên, những hình chụp mới về bộ não cho thấy điều đó chỉ giới hạn ở vùng hai bên vỏ não trước . Ducan và các đồng sự khi sử dụng phương pháp chụp PET thì xác định phần não dùng để giải quyết các vấn đề liên quan rất lớn đến trí thông minh nằm ở vùng hai bên vỏ não trước. Gần đây hơn, Gray và các cộng sự (2003) đã dùng phương pháp fMRI để chứng minh ở những người có trí thông minh cao thì vùng này có thêm khả năng chống lại những sự mất tập trung. Gray và Thompson (2004) có một bài viết về điều này.

[sửa] Cấu trúc bộ não và IQ

Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo kích cỡ từng phần của bộ não bằng phương pháp MRI và đo các khả năng từ vựng và suy luận đã được thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên cứu cho thấy có một sự liên quan nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ não – những người có trí thông minh cao thường có vỏ não mỏng khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn lên.

[sửa] Hiệu ứng Flynn

Trên toàn thế giới, chỉ số IQ sẽ tăng một cách chậm chạp, còn được biết đến với tên gọi hiệu ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đã được quan sát từ rất lâu nhưng rất khó để giải thích. Tuy nhiên, những bài kiểm tra trí thông minh luôn được điều chỉnh lại để điểm trung bình luôn là 100, ví dụ WISC-R (1974), WISC-III (1991) và WISC-IV (2003). Vì vậy, có thể nói rất khó so sánh chỉ số IQ với nhiều năm trước.

[sửa] Sự liên quan IQ

[sửa] Chủng tộc và trí thông minh

Chỉ số IQ của các nhóm người khác nhau trên thế giới vào năm 1981. Chú thích: người châu Á: xanh dương; châu Âu: cam, Tây Ban Nha: xanh lá cây; châu Phi: vàng
Chỉ số IQ của các nhóm người khác nhau trên thế giới vào năm 1981. Chú thích: người châu Á: xanh dương; châu Âu: cam, Tây Ban Nha: xanh lá cây; châu Phi: vàng

Trong khi chỉ số IQ của một cá thể trong những xã hội được phân bố trên cùng một thang IQ, nhưng những nhóm người khác nhau sẽ có những thang IQ có vị trí khác nhau. Trong khi người Do TháiĐông Á có khu vực phân bố thang IQ cao hơn người Châu Âu, trong khi những người Latin và ở vùng hạ Sahara lại có khu vực phân bố thang IQ thấp hơn.[10] Rất nhiều những nghiên cứu đang được tiến hành nhằm tìm hiểu nguyên nhân của sự phân bố IQ như thế, lý do của việc đó và độ chính xác của những bài kiểm tra IQ. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự khác nahu trong những điều kiện kinh tế xã hội nhưng giả thiết trên vẫn chưa được chấp nhận hoàn toàn.[1]

Sự tìm hiểu về những vấn đề trên gây rất nhiều tranh cãi do tính chất nhạy cảm của nó.

[sửa] Tôn giáo và IQ

Một số nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa trí thông minh (được đo bằng trình độ học vấn, điểm số và một số yếu tố khác) và tín ngưỡng, hầu hết đều cho rằng không có bất kì một sự liên vệ nào cả.

[sửa] Sức khỏe và IQ

Một người có trí thông minh cao thường ít bị bệnh tật nặng hơn và sống lâu hơn. Điều đó có thể là bởi vì họ có khả năng né tránh những chấn thương tốt hơn và chăm sóc sức khỏe của mình tốt hơn và mặt khác, họ thường co đời sống kinh tế khá giả hơn. Nó cũng giúp chống lại stress, tuyệt vọng.[11]

Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những người có IQ nhỏ hơn bình thường 15 chứung tỏ rằng họ sẽ mất đi một phần năm cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình. Những người có IQ nhỏ hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó lên đến 37%.[12]

[sửa] Sự phát triển kinh tế và IQ

Một cuốn sách gây tranh cãi IQ and the Wealth of Nations (IQ và sự thịnh vượng của quốc gia) cho rằng sự giàu có của một quốc gia một phần lớn có thể giải thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nước đó. Luận điểm trên đã và đang được ủng hộ nhưng cũng có nhiều chê bai. Thông tin đó đang được đặt câu hỏi để nghiên cứu thêm.

[sửa] Sự hiệu quả thực tế

Bằng chứng về hiệu quả thực tế của chỉ số thông minh được kiểm chứng bằng cách kiểm soát "độ liên quan giữa IQ và thực tế cuộc sống.

Những điều kiện kinh tế và xã hội liên quan đến IQ
Yếu tố Độ liên quan
Học vấn và IQ 0.5
Tổng số năm học tập và IQ 0.55
IQ và điều kiện kinh tế xã hội của cha mẹ 0.33
Hiệu suất làm việc và IQ 0.54
Những rắc rối trong xã hội và IQ -0.2
IQ của những cặp sinh đôi 0.86
IQ của vợ và chồng 0.4
Chiều cao của bố mẹ và đứa trẻ 0.47
Đặc điểm về kinh tế và xã hội của IQ
IQ <75 75–90 90–110 110–125 >125
Chiếm tỉ lệ tong dân số Hoa Kì 5 20 50 20 5
Kết hôn trước 30 tuổi 72 81 81 72 67
Không lao động trên 1 tháng mỗi năm (đàn ông) 22 19 15 14 10
Thất nghiệp trên 1 tháng mỗi năm (đàn ông) 12 10 7 7 2
Li dị trong 5 năm 21 22 23 15 9
Bà mẹ có con với IQ thấp hơn bình thường 39 17 6 7 < 1
Bà mẹ có con ngoài giá thú 32 17 8 4 2
Sống trong nghèo khó 30 16 6 3 2
Bị án tù chung thân 7 7 3 1 < 1
Nhận tiền trợ cấp 31 17 8 2 < 1
Không tốt nghệp phổ thông 55 35 6 0.4 < 0.4
Đơn vị: %. Số liệu trên được đo ở những người da trắng. Tài liệu của Herrnstein và Murray (1994), trang 171, 158, 163, 174, 230, 180, 132, 194, 247-248, 194, 146)

Nghiên cứu cho rằng trí thông minh tổng quát đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Bên cạnh sự thành công trong trường học, IQ có một vai trò hết sức quan trọng hiệu quả làm việc, thăng tiến, địa vị xã hội và cả tỉ lệ phạm tội, nghèo khó, thất nghiệp, có con ngoài giá thú,... Nghiên cứu gần đây cũng đưa ra những mối liên hệ giữa trí thông minh và sức khỏe, sống thọ, số lượng từ vựng được người đó sử dụng. Mối liên hệ giữa hệ số g và cuộc sống khá rõ ràng trong khi IQ và hạnh phúc thì hầu như không. IQ và hệ số g liên quan rất nhiều với nhau trong trường học, nhưng ít hơn trong nghề nghiệp, trung bình trong thu nhập và có một phần nhỏ đến tình trạng phạm tội.

Trí thông minh tổng quát chính là một tiên đoán gần đúng nhất cho khả năng làm việc của con người. Độ liên quan thể hiện mức độ giống nhau giữa những gì mà họ thể hiện trong bài kiểm tra và trong thực tế (được đo bằng nhiều tiêu chí, trong đó có đánh giá của thủ trưởng, thăng thưởng,...) là một con số từ -1.0 (sai hoàn toàn) đến 1.0 (đúng hoàn toàn). Người ta nhận tấhy rằng độ liên quan với những việc chưa từng làm là 0.2 trong khi những việc đã có kinh nghiệm là 0.8.

Một cuộc phân tích lớn (Hunter and Hunter, 1984) trên 32,124 công nhân trên phương diện thông minh tổng quát cho thấy rằng độ liên quan của những người mới vào làm là 0.54, thử việc 0.44, có kinh nghiệm 0.18, phỏng vấn 0.14, tuổi tác -0.01, đang được huấn luyện 0.10. Một bài kiểm tra được thiết kế tốt có thể cho phép các công ti lựa chọn những người có IQ cao. Đó cũng là lý do sau khi xem xét tất cả các ứng viên, người ta thường có phỏng vấn (độ liên quan 0.14) hơn lựa chọn ngẫu nhiên (độ liên quan 0.00)

Tuy nhiên, có những hàng rào luật pháp như quyền con người, như trong năm 1971, tòa án tối cao Hoa Kì sau vụ án Griggs và công ti năng lượng Duke đã cấm hoàn toàn việc các công ti Hoa Kì dùng những bài kiểm tra thông minh để lựa chọn nhân viên khi kết quả của bài kiểm tra có ảnh hưởng quyết định đến việc người đó có được nhận vào làm hay không. Tuy nhiên, Microsoft rất nổi tiếng trong việc sử dụng những bài kiểm tra trên một cách bất hợp pháp bằng cách kết hợp nó với quá trình phỏng vấn, và đôi khi họ đặt vấn đề thông minh cao hơn cả kinh nghiệm (xem thêm ở [13][14]

Những nhà khoa học cũng đã lên tiếng "trong kinh tế, sự đo lường trí thông minh đồng nghĩa với sự suy giảm những giá trị đạo đức"(Detterman and Daniel, 1989, xem thêm ở [15]

Tuy nhiên, một số nghiên cứu về IQ tiếp tục tìm ra những lợi ích của sự thông minh ở một mức độ cao. Khả năng làm việc là một ví dụ, tăng dần theo IQ (Coward và Sackett, 1990). Trong cuộc phân tích hàng trăm đứa trẻ, người ta thấy rằng IQ có một hiệu quả rất lớn lên thu nhập bình quân của gia đình (Murray, 1998)

Một số những nhà nghiên cứu khác đặt một câu hỏi liệu IQ có là nguyên nhân của sự giàu có và sự không đồng đều về kinh tế trong một quốc gia hay không? Câu trả lời là dưới một phần sáu thu nhập bị ảnh hưởng bởi trí thông minh (xem thêm ở [16]). Trong một nghiên cứu gần đây vào năm 2002, người ta còn tìm thấy rằng chủng tộc, của cải, học vấn mới có những vai trò chủ chốt trong việc quyết định tình trạng kinh tế trong tương lai còn IQ là một yếu tố nhỏ và sự di truyền trí thông minh còn đóng một vai trò còn nhỏ hơn thế (xem thêm ở [17]). Nhiều người xem IQ là một biện pháp tình thế của chính phủ các nước nhằm không chấm dứt tình trạng nghèo khổ. Một số khác cho IQ là nguyên nhân của xã hội phong kiến, đối xử bất bình đẳng với phụ nữ (mặc dù phụ nữ có chỉ số IQ bằng với nam giới). Cũng có ý kiến cho rằng những người có trí thông minh cao thường cho rằng trí thông minh rất quan trọng khiến nhiều người bực mình trong cách cư xử của họ (xem thêm ở [18]

[sửa] Những chỉ trích xung quanh vấn đề IQ

Trong tác phẩm The Mismeasure of Man, giáo sư Stephen Jay Gould cho rằng chỉ số IQ chỉ là một cách phân biệt chủng tộc cao cấp của những nhà khoa học.

Arthur Jensen, giáo sư khoa tâm lý giáo dục, trường đại học California, Berkeley hưởng ứng ý kiến của Gould và có một bài báo mang tên The Debunking of Scientific Fossils and Straw Persons (Vạch trần những luận điểm khoa học cũ kĩ của những người rơm) [19]

[sửa] Những xã hội của những người có trí thông minh cao

  • International High IQ Society: IQ trên 126 hay trên 95% dân số
  • Vinci Society IQ trên 126 hay trên 95% dân số
  • Sigma Society IQ trên 132 hay trên 97.7% dân số
  • Mensa International IQ trên 133 hay trên 98% dân số
  • High Potentials Society IQ trên 133 hay trên 98% dân số
  • Mysterium Society IQ trên 133 hay trên 98% dân số
  • Intertel (hội) IQ trên 137 hay trên 99% dân số
  • Top One Percent Society IQ trên 137 hay trên 99% dân số
  • Colloquy (hội) IQ trên 141 hay trên 99.5% dân số
  • Poetic Genius Society IQ trên 141 hay trên 99.5% dân số
  • Cerebrals Society IQ trên 144 hay trên 99.7% dân số
  • Epiq Society IQ trên 146 hay trên 99.7% dân số
  • Civiq Society IQ trên 148 hay trên 99.87% dân số
  • Sigma Society III IQ trên 148 hay trên 99.87% dân số
  • International Society for Philosophical Enquiry IQ trên 149 hay trên 99.9% dân số
  • Triple Nine Society IQ trên 149 hay trên 99.9% dân số
  • Iquadrivium Society IQ trên 149 hay trên 99.9% dân số
  • One-in-a-Thousand Society IQ trên 150 hay trên 99.91% dân số
  • Glia SocietyIQ trên 150 hay trên 99.91% dân số
  • ISI-Society IQ trên 151 hay trên 99.93% dân số
  • Prometheus Society IQ trên 164 hay trên 99.997% dân số
  • Helliq Society IQ trên 164 hay trên 99.997% dân số
  • Ultranet Society IQ trên 164 hay trên 99.997% dân số
  • Sigma Society IV IQ trên 164 hay trên 99.997% dân số
  • Pi Society IQ trên 176 hay trên 99.9999% dân số
  • Mega Society IQ trên 176 hay trên 99.9999% dân số
  • Olympiq SocietyIQ trên 180 hay trên 99.99997% dân số
  • Pars Society IQ trên 180 hay trên 99.99997% dân số
  • Sigma Society V IQ trên 180 hay trên 99.99997% dân số
  • Sigma Society VI IQ trên 196 hay trên 99.9999999% dân số
  • Giga Society IQ trên 196 hay trên 99.9999999% dân số

[sửa] Chú thích

  1. 1,0 1,1 Neisser, Ulric; Gwyneth Boodoo; Thomas J. Bouchard, Jr.; và các cộng sự (1995). Intelligence: Knowns and Unknowns. Science Directorate.
  2. Harris, 1998; Plomin và Daniels, 1987
  3. 3,0 3,1 Plomin, 2001–2003
  4. 4,0 4,1 Sailer, Steve. “IQ Defenders Feel Vindicated by Supreme Court”, UPI, 24 tháng 6 năm 2002.
  5. Boyle, Coleen A.; Marshalyn Yeargin-Allsopp; Nancy S. Doernberg; và các cộng sự (19 tháng 4 năm 1996). “Prevalence of Selected Developmental Disabilities in Children 3-10 Years of Age: the Metropolitan Atlanta Developmental Disabilities Surveillance Program, 1991”. Morbidity and Mortality Weekly Report 45 (SS-2): 1–14.
  6. McDaniel, 2005
  7. Posthuma và các cộng sự, 2002
  8. 8,0 8,1 Duncan và các cộng sự, 1995
  9. Thompson và các cộng sự, 2001
  10. Nghiên cứu của Gottfredson, 1994. Arvey, Richard; Thomas J. Bouchard, Jr.; John B. Carroll; và các cộng sự. “Mainstream Science on Intelligence”, The Wall Street Journal, Dow Jones & Company, 13 tháng 12 năm 1994, tr. A18.
  11. Gray, Jeremy; Paul M. Thompson. “Neurobiology of intelligence: Health implications?” (PDF).
  12. Clever people 'live longer'”, BBC News, BBC, 5 tháng 4 năm 2001.
  13. [1]
  14. [2])
  15. [3])
  16. [4]
  17. [5]
  18. [6]
  19. [7]

[sửa] Tài liệu tham khảo

  • Carroll, J.B. (1993). Human cognitive abilities: A survey of factor-analytical studies. Nhà xuất bản đại học Cambridge.
  • Coward, W.M. và Sackett, P.R. (1990). Linearity of ability-performance relationships: A reconfirmation. Journal of Applied Psychology,.
  • Duncan, J., P. Burgess, và H. Emslie (1995) Fluid intelligence after frontal lobe lesions. Neuropsychologia.
  • Duncan, J., et al., A neural basis for general intelligence. Science, 2000.
  • Flynn, J.R. (1999). Searching for Justice: The discovery of IQ gains over time. American Psychologist.
  • Frey, M.C. và Detterman, D.K. (2003) Scholastic Assessment or g? The Relationship Between the Scholastic Assessment Test and General Cognitive Ability. Psychological Science,. PDF
  • Gottfredson, L. S. (1997). "Why g matters: The complexity of everyday life." Intelligence. PDF
  • Gottfredson, L.S. (1998). The general intelligence factor. Hội khoa học Hoa Kì,. PDF
  • Gottfredson, L. S. (2005). Suppressing intelligence research: Hurting those we intend to help.
  • R. H. Wright & N. A. Cummings (Eds.), Destructive trends in mental health: The well-intentioned path to harm. Pre-print PDF PDF
  • Gottfredson, L. S. (in press). "Social consequences of group differences in cognitive ability (Consequencias sociais das diferencas de grupo em habilidade cognitiva)". In C. E. Flores-Mendoza & R. Colom (Eds.), Introducau a psicologia das diferncas individuais. Porto Allegre, Brazil: ArtMed Publishers. PDF
  • Gray, J.R., C.F. Chabris, and T.S. Braver, Neural mechanisms of general fluid intelligence. Nat Neurosci, 2003. 6(3): p. 316-22.
  • Gray, J.R. and P.M. Thompson, Neurobiology of intelligence: science and ethics. Nat Rev Neurosci, 2004. 5(6): p. 471-82.
  • Haier RJ, Jung RE, Yeo RA, et al. (2005). “The neuroanatomy of general intelligence: sex matters”. NeuroImage 25: 320–327.
  • Harris, J. R. (1998). The nurture assumption : why children turn out the way they do. New York, Free Press.
  • Hunt, E. (2001). Multiple views of multiple intelligence. [Review of Intelligence Reframed: Multiple Intelligences for the 21st Century.]
  • Jensen, A.R. (1998). The g Factor. Praeger, Connecticut, USA.
  • Jensen, A.R. (2006). "Clocking the Mind: Mental Chronometry and Individual Differences." Elsevier Science. --->New release scheduled for early June, 2006.
  • McClearn, G. E., Johansson, B., Berg, S., Pedersen, N. L., Ahern, F., Petrill, S. A., & Plomin, R. (1997). Substantial genetic influence on cognitive abilities in twins 80 or more years old. Science, 276, 1560–1563.
  • Murray, Charles (1998). Income Inequality and IQ, AEI Press PDF
  • Noguera, P.A. (2001). Racial politics and the elusive quest for excellence and equity in education. In Motion Magazine article
  • Plomin, R., DeFries, J. C., Craig, I. W., & McGuffin, P. (2003). Behavioral genetics in the postgenomic era. Washington, DC: American Psychological Association.
  • Plomin, R., DeFries, J. C., McClearn, G. E., & McGuffin, P. (2001). Behavioral genetics (4th ed.). New York: Worth Publishers.
  • Rowe, D. C., W. J. Vesterdal, and J. L. Rodgers, "The Bell Curve Revisited: How Genes and Shared Environment Mediate IQ-SES Associations," University of Arizona, 1997
  • Schoenemann, P.T., M.J. Sheehan, and L.D. Glotzer, Prefrontal white matter volume is disproportionately larger in humans than in other primates. Nat Neurosci, 2005.
  • Shaw P, Greenstein D, Lerch J, Clasen L, Lenroot R, Gogtay N, Evans A, Rapoport J, and Giedd J (2006), "Intellectual ability and cortical development in children and adolescents". Nature 440, 676-679.
  • Tambs K, Sundet JM, Magnus P, Berg K. "Genetic and environmental contributions to the covariance between occupational status, educational attainment, and IQ: a study of twins." Behav Genet. 1989 Mar;19(2):209–22. PMID 2719624.
  • Thompson, P.M., Cannon, T.D., Narr, K.L., Van Erp, T., Poutanen, V.-P., Huttunen, M., Lönnqvist, J., Standertskjöld-Nordenstam, C.-G., Kaprio, J., Khaledy, M., Dail, R., Zoumalan, C.I., Toga, A.W. (2001). "Genetic influences on brain structure." Nature Neuroscience 4, 1253-1258.
Our "Network":

Project Gutenberg
https://gutenberg.classicistranieri.com

Encyclopaedia Britannica 1911
https://encyclopaediabritannica.classicistranieri.com

Librivox Audiobooks
https://librivox.classicistranieri.com

Linux Distributions
https://old.classicistranieri.com

Magnatune (MP3 Music)
https://magnatune.classicistranieri.com

Static Wikipedia (June 2008)
https://wikipedia.classicistranieri.com

Static Wikipedia (March 2008)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com/mar2008/

Static Wikipedia (2007)
https://wikipedia2007.classicistranieri.com

Static Wikipedia (2006)
https://wikipedia2006.classicistranieri.com

Liber Liber
https://liberliber.classicistranieri.com

ZIM Files for Kiwix
https://zim.classicistranieri.com


Other Websites:

Bach - Goldberg Variations
https://www.goldbergvariations.org

Lazarillo de Tormes
https://www.lazarillodetormes.org

Madame Bovary
https://www.madamebovary.org

Il Fu Mattia Pascal
https://www.mattiapascal.it

The Voice in the Desert
https://www.thevoiceinthedesert.org

Confessione d'un amore fascista
https://www.amorefascista.it

Malinverno
https://www.malinverno.org

Debito formativo
https://www.debitoformativo.it

Adina Spire
https://www.adinaspire.com