Nho
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
?
Nho |
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một chùm nho
|
|||||||||||||
Phân loại khoa học | |||||||||||||
|
|||||||||||||
|
|||||||||||||
Vitis acerifolia Vitis aestivalis Vitis amurensis Vitis arizonica Vitis x bourquina Vitis californica Vitis x champinii Vitis cinerea Vitis x doaniana Vitis girdiana Vitis labrusca Vitis x labruscana Vitis lincecumii Vitis monticola Vitis mustangensis Vitis x novae-angliae Vitis palmata Vitis riparia Vitis rotundifolia Vitis rupestris Vitis shuttleworthii Vitis tiliifolia Vitis vinifera Vitis vulpina |
Nho là một từ để chỉ loại quả mọc trên các cây dạng dây leo thân gỗ hoặc để chỉ chính các loài cây này. Các loài cây này thuộc về họ Vitaceae. Quả nho mọc thành chùm từ 6 đến 300 quả, chúng có màu đen, lam, vàng, lục, đỏ-tía hay trắng. Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho khô, cũng như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch nho, nước quả, dầu hạt nho. Trong tiếng Trung, nó được gọi là葡萄 (bồ đào) và khi người ta nói đến rượu bồ đào tức là rượu sản xuất từ quả nho.
Tuy nhiên, các loài nho dại lại bị coi là một loại cỏ dại gây nhiều phiền toái, do chúng che phủ các loài thực vật khác với tốc độ tăng trưởng rất nhanh của mình.
Nho bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hại - xem thêm tại Danh sách các loài cánh vẩy phá hại nho.
Mục lục |
[sửa] Phân loại
Hiện có rất nhiều loài nho đang tồn tại, chúng bao gồm:
- Vitis vinifera, loài nho dùng để sản xuất rượu vang ở châu Âu. Có nguồn gốc ở châu Âu lục địa.
- Vitis labrusca, loài nho dùng để ăn tươi và sản xuất nước nho tại Bắc Mỹ, đôi khi cũng dùng để sản xuất rượu vang. Có nguồn gốc ở miền đông Hoa Kỳ và Canada.
- Vitis riparia, loài nho hoang dại ở Bắc Mỹ, đôi khi được dùng sản xuất rượu vang hay làm mứt. Có nguồn gốc ở miền đông Hoa Kỳ, kéo dài về phía bắc tới Quebec.
- Vitis rotundifolia, nho muxcat hay nho xạ, được sử dụng làm mứt và rượu vang. Có nguồn gốc ở miền đông nam Hoa Kỳ, từ Delaware tới vịnh Mexico.
- Vitis aestivalis, giống Norton (AKA Cynthiana) được dùng để sản xuất rượu vang.
- Vitis lincecumii (còn gọi là Vitis aestivalis hay Vitis lincecumii), Vitis berlandieri (còn gọi là Vitis cinerea thứ helleri), Vitis cinerea, Vitis rupestris: Được sử dụng để lai ghép nhằm tạo ra các giống nho chống chịu bệnh, dưới dạng thân ghép (thân rễ).
- Vitis arizonica, một loài nho vùng sa mạc ở miền tây nam Hoa Kỳ, chịu được sự chênh lệch nhiệt độ lớn. Có thể dùng sản xuất rượu vang.
- Vitis californica, một loài nho quan trọng đối với công nghiệp sản xuất rượu vang của California vì các thân ghép của chúng có khả năng chịu dịch bệnh và thời tiết lạnh. Có nguồn gốc ở California và Oregon.
- Vitis vulpina, loài nho chịu sương muối. Có nguồn gốc ở vùng Trung Tây nước Mỹ kéo dài về phía đông tới vùng bờ biển thuộc bang New York.
Hiện nay, người ta đã tạo ra nhiều giống nho để trồng; chủ yếu là các giống của V. vinifera.
Các loài nho lai ghép cũng tồn tại, chủ yếu là lai ghép giữa V. vinifera và một trong các thứ (biến chủng) của V. labrusca, V. riparia hay V. aestivalis. Các giống lai ghép có xu hướng ít nhạy cảm với sương muối và dịch bệnh (đáng chú ý là các loài rệp hại rễ nho), nhưng rượu vang sản xuất từ chúng có thể có mùi vị chua đặc trưng của labrusca.
[sửa] Diện tích trồng
Theo số liệu của FAO, 75.866 km² trên thế giới được dùng để trồng nho. Khoảng 71% sản lượng nho được dùng sản xuất rượu vang, 27% để ăn dưới dạng quả tươi và 2% làm nho khô.
Danh sách dưới đây liệt kê 11 quốc gia sản xuất rượu vang nho hàng đầu thế giới với diện tích trồng nho tương ứng cho việc sản xuất rượu vang:
- Tây Ban Nha 11.750 km²
- Pháp 8.640 km²
- Italy 8.270 km²
- Thổ Nhĩ Kỳ 8.120 km²
- Hoa Kỳ 4.150 km²
- Iran 2.860 km²
- Romania 2.480 km²
- Bồ Đào Nha 2.160 km²
- Argentina 2.080 km²
- Trung Quốc 1.780 km²
- Australia 1.642 km²
Nguồn: FAO, Organisation Internationale de la Vigne et du Vin (pdf), Australian Wine and Brandy Corporation.
[sửa] Rượu vang đỏ
Các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như Marty Mayo, đã so sánh khẩu phần dinh dưỡng ở các quốc gia phương Tây và đã phát hiện ra rằng mặc dù người Pháp có xu hướng ăn nhiều chất béo động vật hơn, nhưng tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người Pháp lại khá thấp. Họ gọi hiện tượng này là nghịch lý Pháp. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là người Pháp tiêu thụ nhiều rượu vang đỏ hơn. Các chất có trong quả nho đã làm nồng độ cholesterol trong cơ thể thấp hơn và vì thế làm chậm lại quá trình tích lũy trong động mạch. Các hợp chất như resveratrol (chất chống ôxi hóa polyphenol) đã được tìm thấy có trong nho và chúng có liên quan đến việc phòng chống ung thư, các bệnh tim mạch, làm suy hóa các bệnh liên quan đến thần kinh và các bệnh tật khác. Các bác sĩ không khuyến cáo dùng nhiều rượu vang đỏ, nhưng việc sử dụng từ 3-4 cốc trong một tuần là có lợi cho sức khỏe và được khuyến khích [cần chú thích].
Mặc dù nhiều người nhận thức một cách sai lầm rằng các loại nho đỏ là có lợi hơn cho sức khỏe, trên thực tế tất cả các loại nho có màu khác cũng đem lại các lợi ích đáng kể. Tuy nhiên, rượu vang đỏ đem lại một số lợi ích cho sức khỏe mà không thấy có ở rượu vang trắng, do nhiều chất có lợi cho sức khỏe được tìm thấy ở lớp vỏ quả nho, mà chỉ có vang đỏ mới được lên men bằng cả vỏ quả.
Một nhận thức sai lầm khác là người ta cho rằng rượu vang trắng được sản xuất từ các giống nho có vỏ màu xanh. Trên thực tế, nó có thể được sản xuất từ bất kỳ giống nho nào. Vang đỏ được sản xuất từ các giống nho vỏ đỏ, nhưng sự tạo màu là kết quả của việc thêm cả vỏ vào trong quá trình ngâm ủ (lên men).
Cây nho trồng ở bang Geneva, Thụy Sỹ. |
[sửa] Các loại nho khô
Nho khô là bất kỳ loại quả nho được làm khô nào. Nho khô Zante (currant) hay còn gọi là nho Hy Lạp, là nho khô của vùng Zakynthos, tên gọi này là sự sửa đổi sai lạc của từ trong tiếng Pháp raisin de Corinthe (nho Corinth). Nho sultana (nho xuntan) nguyên thủy là nho khô sản xuất từ một giống nho không hạt có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng hiện nay nó được dùng để chỉ bất kỳ thứ nho khô nào được xử lý bằng hóa chất để giống như nho sultana truyền thống.
[sửa] Chất chiết từ hạt nho
Hạt nho có chứa các procyanidolic oligomer, viết tắt là PCO. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận là các PCO củng cố các mạch máu và cải thiện sự lưu thông máu. Các chất chiết từ hạt nho có thể giúp chống lão hóa, giảm các bệnh tim mạch, cản trở các tế bào ung thư, giảm bớt các triệu chứng dị ứng và trạng thái căng thẳng của mắt cũng như giúp phòng chống một số bệnh da liễu. Trong các nghiên cứu gần đây, các chất chiết từ hạt nho cũng có chức năng giảm bớt xellulit (một chứng bệnh do mỡ lồi ra hạ bì, tạo thành các vệt lồi lõm trên da) và hạ thấp mức cholesterol và huyết áp. Các chất chiết từ hạt nho có ở ba dạng sau: lỏng, viên nén và viên nang.
[sửa] Nho không hạt
Nho không hạt là một đặc điểm được đánh giá cao khi đem dùng ở dạng quả tươi và các giống không hạt hiện nay đã chiếm một tỷ lệ áp đảo trong số các giống nho trồng để ăn quả tươi. Do việc trồng nho có thể bằng các cành giâm, cho nên việc không có hạt không tạo ra vấn đề cho việc tái sinh sản nho. Tuy nhiên, nó là vấn đề cho những người nhân giống, họ hoặc phải sử dụng các giống có hạt làm cây mẹ hoặc lấy ra các phôi mầm từ sớm trong quá trình phát triển bằng các kỹ thuật nuôi cấy mô.
[sửa] Xem thêm
- Danh sách các giống nho